Danh sách thiết giáp hạm của Nhật Bản![]() Vào cuối thế kỷ 19, chiến lược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được dựa trên triết lý hải quân Jeune Ecole cực đoan, được thúc đẩy bởi cố vấn quân sự Pháp và kỹ sư hàng hải Emile Bertin. Triết lý này tập trung vào tàu phóng lôi rẻ tiền và việc tấn công thương mại để bù lại tàu bọc giáp đắt tiền. Việc mua hai tàu bọc thép lớp Định Viễn đóng bởi Đức bởi Hạm đội Bắc Dương của Trung Quốc năm 1885 đe dọa lợi ích của Nhật Bản tại Hàn Quốc. Một chuyến viếng thăm bởi tàu chiến Trung Quốc tới Nhật Bản vào đầu năm 1891 đã buộc chính phủ Nhật Bản phải thừa nhận rằng Hải quân Nhật cần các tàu trang bị vũ trang và giáp tương đương để chống lại các tàu bọc thép của Trung Quốc; Ba tàu bọc thép hạng nhẹ lớp Matsushima đặt hàng từ Pháp sẽ không đủ, mặc dù được trang bị pháo mạnh. Hải quân Nhật quyết định đặt một cặp thiết giáp hạm mới nhất từ Anh Quốc vì Nhật Bản thiếu công nghệ và khả năng đóng các thiết giáp hạm của riêng mình.[2][3] Kinh nghiệm chiến đấu trong Chiến tranh Thanh-Nhật năm 1894–95 đã thuyết phục Hải quân Nhật rằng học thuyết Jeune Ecole là không thể áp dụng được. Do đó, Nhật Bản đã ban hành chính sách xây dựng hải quân mười năm vào đầu năm 1896 nhằm hiện đại hóa và mở rộng đội tàu chiến của mình để chuẩn bị cho các cuộc xung đột sau này. Nó bắt đầu với việc xây dựng tổng cộng sáu thiết giáp hạm và sáu tàu tuần dương bọc thép.[4] Những con tàu này được chi chả từ khoản bồi thường 30.000 bảng Anh do Trung Quốc chi trả sau khi thua cuộc Chiến tranh Thanh-Nhật và bốn thiết giáp ham còn lại của chương trình cũng được xây dựng ở Anh.[5] Căng thẳng gia tăng giữa Nhật Bản và Đế quốc Nga trong việc giành quyền kiểm soát Triều Tiên và Mãn Châu vào đầu những năm 1900 đã khiến Nhật Bản bắt đầu cuộc chiến tranh Nga-Nhật năm 1904–5 với một cuộc tấn công bất ngờ vào căn cứ của Nga tại cảng Arthur. Lục quân Đế quốc Nhật chiếm được cảng và bắt được các tàu còn lại của Hải đội Thái Bình Dương vào cuối năm, nhưng nước Nga đã gửi phần lớn Hạm đội Baltic của họ đến để giải cứu cảng Arthur. Hạm đội đã không đến eo biển Hàn Quốc cho đến tháng 5 năm 1905 và gần như hoàn toàn bị tiêu diệt bởi Hạm đội liên hợp Nhật trong Trận Tsushima mặc dù có lợi thế lớn về số lượng. Trong thời gian chiến tranh, Nhật Bản đã bắt được tổng cộng sáu thiết giáp hạm tiền-Dreadnought của Nga. Tất cả đều được sửa chữa và đưa vào hạm đội Nhật; trong số này, ba chiếc được đã trao trả về Nga sau chiến tranh, vào lúc Thế chiến thứ nhất khi hai nước là đồng minh. Tầm quan trọng của chiến thắng tại Tsushima khiến lãnh đạo Hải quân Nhật tin rằng một sự giao tranh giữa các hạm đội chính là trận chiến quyết định duy nhất trong chiến tranh hiện đại và sẽ được quyết định bởi các thiết giáp hạm trang bị những khẩu súng lớn nhất. Hệ quả của việc này là các tàu Nhật phải vượt trội về mặt chất lượng so với các đối thủ của họ để đảm bảo chiến thắng.[6] Sau chiến tranh, Đế chế Nhật Bản chuyển sự chú ý của mình sang hai đối thủ còn lại để trở thành đế quốc thống trị ở Thái Bình Dương: Anh và Mỹ.[7] Satō Tetsutarō, một Đô đốc Hải quân Nhật và nhà lý thuyết quân sự, cho rằng cuộc xung đột chắc chắn sẽ xảy ra giữa Nhật Bản và ít nhất một trong hai đối thủ chính của nó. Vì vậy, ông kêu gọi Hải quân Nhật duy trì một hạm đội với ít nhất 70% như lượng kỳ hạm như Hải quân Hoa Kỳ. Tỷ lệ này, theo lý thuyết Satō, sẽ cho phép Hải quân Đế quốc Nhật đánh bại Hải quân Hoa Kỳ trong một trận chiến lớn ở vùng biển Nhật Bản trong bất kỳ xung đột có thể xảy ra. Theo đó, Chính sách Quốc phòng Đế quốc năm 1907 kêu gọi xây dựng một hạm đội gồm tám thiết giáp hạm hiện đại, mỗi tàu 20.000 tấn dài (20,321 tấn SI), và tám tàu tuần dương bọc thép hiện đại, mỗi chiếc 18.000 tấn dài (18,289 tấn SI).[8] Đây là nguồn gốc của Chương trình Hạm đội Tám-Tám, sự phát triển của một hạm đội liên kết chặt chẽ bằng mười sáu kỳ hạm.[9] Việc hạ thủy của chiếc HMS Dreadnought vào năm 1906 bởi Hải quân Hoàng gia đã tăng khó khăn và cơ hội cho Hải quân Nhật[10] và làm phực tạp hóa các kế hoạch của Nhật Bản khi tất cả các thiết giáp hạm của Nhật lúc bấy giờ trở nên lỗi thời.[11] Sự hạ thủy của thiết giáp tuần dương-tuần dương HMS Invincible một năm sau là một trở ngại hơn nữa cho mục tiêu đạt thế cân bằng của Nhật Bản. Khi hai thiết giáp hạm lớp Satsuma mới và hai tàu tuần dương bọc thép Tsukuba được hạ thủy vào năm 1911 thì đã bị các tàu đối thủ Anh vượt qua về chất lượng, buộc Chương trình Hạm đội Tám-Tám phải bắt đầu lại từ đầu.[12] Các thiết giáp hạm đầu tiên được chế tạo cho Chương trình Hạm đội Tám-Tám mới là hai chiếc Dreadought lớp Kawachi, được đặt hàng vào năm 1907 và được thi công vào năm 1908. Năm 1910, Hải quân đưa ra yêu cầu lên Quốc hội để bảo đảm tài trợ cho toàn bộ chương trình cùng một lúc. Do những hạn chế về kinh tế, đề xuất đã được Bộ Hải quân bị cắt lần thứ nhất thành bảy thiết giáp hạm và ba thiết giáp-tuần dương, sau đó là nội các cắt xuống con bốn tàu tuần dương bọc thép và một thiết giáp hạm duy nhất. Quốc hội đã sửa đổi lại bằng cách cho phép xây dựng bốn thiết giáp-tuần dương (lớp Kongō) và một thiết giáp hạm, sau này đặt tên là Fusō, trong đó đã trở thành Dự luật mở rộng khẩn cấp của Hải quân. Quốc Hội thông qua việc đóng thêm ba thiết giáp hạm nữa. Nó sẽ là chiếc Fusō thứ hai và hai chiếc lớp Ise[13]
Thiết giáp tiền DreadnoughtsLớp Fuji![]() Hai tàu Fuji và Yashima thuộc lớp thiết giáp hạm Fuji (富士型戦艦 (Phú Sĩ hình chiến hạm) Fuji-gata senkan), là thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Chúng được đặt hàng để đáp trả hai tàu chiến bọc sắt mới của Trung Quốc do Đức chế tạo. Hai tàu lớp Fuji được thiết kế như một phiên bản nhỏ hơn của lớp Royal Sovereign của Anh với trọng tải choán nước nhỏ hơn ở mức 12.230–12.533 tấn Anh (12.426–12.734 t) và dài 412 foot (126 m). Chúng được bảo vệ bởi 14–18 in (356–457 mm) giáp đai Harvey và được trang bị bốn pháo chính 12 inch (305 mm)/40 li,[14] mười sáu khẩu 6 inch (152 mm),[15] hai mươi bốn khẩu Hotchkiss 3 pounder, và năm ống phóng ngư lôi.[16] Hai động cơ Humphrys Tennant hơi nước giãn nở ba khoang đặt dọc với mỗi động cơ quay một trục chân vịt, cho phép lớp thiết giáp hạm này của Nhật Bản đạt vận tốc tối đa 18,25 kn (33,80 km/h; 21,00 mph).[17] Cả hai chiếc Fuji được bắt đầu đóng vào nửa sau năm 1894,[18] nhưng Yashima đã hoàn thành và đưa đến Nhật Bản một năm trước chiếc Fuji [19] lúc đó đang tham dự cuộc duyệt binh hạm đội Kỉ niệm 60 năm trị vì của Victoria của Anh vào ngày 26 tháng 6 năm 1897.[20] Là một phần của Đệ nhất Hạm đội cả hai chiếc trong lớp đã tham gia chiến đấu tại cảng Arthur vào ngày 9-10 tháng 3 năm 1904 mà trong đó Fuji bị thiệt hại nhẹ và Yashima không bị hư hại.[21] Tiếp đến là giao tranh vào ngày 13 tháng 4 dẫn đến việc đánh chìm thiết giáp hạm Petropavlovsk của Nga.[22] Vào ngày 15 tháng 5 năm 1904, Yashima đâm phải hai quả mìn và chìm tại chỗ, để lại Fuji là tàu lớp Fuji duy nhất còn lại.[15] Vào tháng 8, nó tiếp tục tham gia trận Hoàng Hải mà không bị thiệt hại và sau đó là trận Tsushima[23] vào tháng 5 năm 1905, nơi nó được ghi nhận đã bắn phát súng gây ra vụ nổ kho đạn phá hủy chiếc Borodino và một lần nữa chỉ bị hư hại nhẹ.[24] Vào ngày 23 tháng 10 năm 1908, Fuji đã tiếp đón đại sứ Mỹ tại Nhật Bản và một số sĩ quan cao cấp của Đại Bạch Hạm Đội (Great White Fleet),[25] rồi được chuyển xuống thành một tàu phòng thủ ven biển, sau đó bị giải giáp hoàn toàn, cho đến khi bị máy bay Mỹ đánh chìm vào ngày 18 tháng 7 năm 1945 và bị tháo dỡ 1948.[26]
Lớp Shikishima![]() Hai tàu Shikishima và Hatsuse thuộc lớp thiết giáp hạm Shikishima (敷島型戦艦 (Phu Đảo hình chiến hạm) Shikishima-gata senkan) được thiết kế như một phiên bản mạnh mẽ hơn của Thiết giáp hạm lớp Majestic của Hải quân Hoàng gia Anh và được đóng ở Anh.[31] Giống như lớp Majestic và Fuji, lớp Shikishima được trang bị bốn súng chính 12 inch (305 mm)/40 li,[32] mười bốn khẩu súng 6 inch (152 mm),[33] hai mươi khẩu súng 12-pounder, bốn khẩu Hotchkiss 3 pounder, và bốn ống phóng ngư lôi.[34] Lớp Shikishima cũng sử dụng hai động cơ Humphrys Tennant hơi nước giãn nở ba khoang đặt dọc với hai trục chân vịt để đạt được vận tốc tối đa 18 kn (33 km/h; 21 mph). Các chiếc Shikishima được bảo vệ bởi lớp giáp đai Harvey dày 4–9 inch (102–229 mm), tương đương một nửa của lớp Fuji.Thiết kế dài 126m và có trọng tải choán nước 14.850–15.000 tấn Anh (15.090–15.240 t).[35] Shikishima hoàn thành vào ngày 26 tháng 6 năm 1900 và ngay lập tức rời Anh về Nhật Bản, nhưng Hatsuse ở lại Anh sau khi hoàn thành vào ngày 18 tháng 1 năm 1901 để đại diện cho Thiên Hoàng Minh Trị tại tang lễ của Victoria của Anh.[36][37] Được chỉ định vào Đệ nhất Hạm đội trước Chiến tranh Nga-Nhật,cả hai tàu đã có mặt trong Trận chiến cảng Arthur và đã bị dính tổng cộng ba phát đạn. Cả hai chiếc cũng có mặt để chứng kiến sự phá hủy của Kỳ hạm Petropavlovsk dưới sự chỉ huy của đô đốc Nga Makarov,[38] nhưng Hatsuse đã đâm phải một trong những quả mìn mà người Nga đặt sau cái chết của Makarov và bị chìm sau khi bị nổ kho đạn.[39] Shikishima tiếp tục là tàu duy nhất còn lại trong lớp, tàu đã chiến đấu trong Trận Hoàng Hải chỉ bị hư nhẹ khi một viên đạn 12 inch không khai hỏa đúng cách.[40] Shikishima sau đó tham gia Trận Tsushima vào ngày 27 tháng 28 năm 1905, nó bị dính đạn chín lần, phải chịu một phát khai hỏa không đúng cách lần nữa nhưng nó đã đánh chìm thiết giáp hạm Oslyabya của Nga khi phối hợp với tàu Mikasa.[41] Shikishima đã trải qua thời gian Chiến tranh thế giới thứ nhất tại Vùng hải quân Sasebo [42] và được phân loại lại hai lần sau khi Hiệp ước Hải quân Washington được ký vào năm 1922.[36] nó được sử dụng như một tàu huấn luyện tại Sasebo cho đến năm 1948, khi nó bị tháo dỡ.[43]
Asahi![]() Thiết giáp hạm Asahi (朝日型戦艦 (Triêu Nhật hình chiến hạm) Asahi-gata senkan) được đóng vào những năm 1890 là phiên bản sửa đổi của thiết giáp hạm lớp Formidable của Anh,[42] với trọng tải choán nước 15.200 tấn Anh (15.400 t). Cũng như các thiết giáp hạm trước của Nhật Bản, Asahi dài 425 foot 3 inch (130 m) cũng sử dụng hai động cơ Humphrys Tennant hơi nước giãn nở ba khoang đặt dọc với hai trục chân vịt cho tốc độ tối đa 18 kn (33 km/h; 21 mph).[36] Giống các thiết giáp hạm trước của Nhật, nó được trang bị bốn khẩu pháo chính 12 inch (305 mm)/40 li,[32] mười bốn khẩu súng 6 inch (152 mm),[36] hai mươi khẩu súng 12-pounder,[45] tổng cộng mười hai khẩu Hotchkiss 3 pounder,[46] và bốn ống phóng ngư lôi. [42] Asahi cũng sử dụng giáp đai Harvey dày 4–9 inch (102–229 mm) y chang lớp Shikishima.[32][47] Sau khi hoàn thành, Asahi đến Yokosuka vào ngày 23 tháng 10 năm 1900 và năm sau, nó trở thành kỳ hạm của Hạm đội Thường trực của Hải quân Đế quốc Nhật Bản và sau đó được đưa vào Đệ nhất Hạm đội khi Hạm đội liên hợp được tái thành lập vào ngày 23 tháng 12 năm 1903.[48][49] Khi bắt đầu Chiến tranh Nga-Nhật, Asahi đã tham gia Trận chiến cảng Arthur và giúp tiêu diệt thiết giáp hạm Petropavlovsk của Nga mà không bị hư hại trong cả chiến dịch. Trong trận Hoàng Hải, Asahi bị hư hại vừa nhưng làm gây thương tích cho chiếc Poltava và Tsesarevich.[50] Sau đó hai tháng, Asahi đâm phải mìn gần cảng Arthur, nhưng đã được sửa chữa kịp thời cho Trận Tsushima. Ở đó, nó đã giúp vô hiệu hóa chiếc Knyaz Suvorov và đấu tay đôi với cả Borodino và Oryol mà không thiệt hại gì.[51] Nó đóng vai trò là một tàu huấn luyện bắn pháo trong hầu hết Thế chiến thứ nhất cho đến khi được tái trang bị vào năm 1917 để hộ tống các đoàn tàu vận tải trong sự can thiệp của Nhật Bản vào cuộc Nội chiến Nga.[36] Asahi sau đó một lần nữa được trang bị lại thành một con tàu không chiến đấu trong những năm 1920 và sau đó chuyển thể thành tàu sửa chữa vào ngày 16 tháng 8 năm 1937,[49] kiêm vận tải cho lục quân Đế quốc Nhật đến Vịnh Hàng Châu. Vào đêm 25-26 tháng 5 năm 1942, Asahi bị tàu ngầm Mỹ USS Salmon phóng ngư lôi và đánh chìm ngoài khơi Đông Dương.[48]
Mikasa![]() ![]() Thiết kế của thiết giáp hạm Mikasa (三笠型戦艦 (Tam Lạp hình chiến hạm) Mikasa-gata senkan) cũng là phiên bản sửa đổi của thiết giáp hạm lớp Formidable của Anh. [42] nó có chiều dài 132 mét (432 feet)[36], và trang bị cùng loại pháo chính 12 inch (305 mm)/40 li được sử dụng trên lớp Formidable và tất cả các thiết giáp hạm Nhật trước đó. Khác với các thiết giáp hạm trước, Mikasa sử dụng giáp Krupp cường lực với độ dày 4–9 inch (102–229 mm) ở thành tàu. Mikasa vẫn sử dụng thiết kế hai động cơ với hai trục nhưng lại được trang bị nồi hơi mới cho phép nó đạt được tốc độ 18,45 kn (34,17 km/h; 21,23 mph). Giống Asahi, Mikasa mang hơn lớp Formidable hai khẩu pháo phụ 6 inch (152 mm) với tổng cộng là 14 khẩu. Tổng lại, chiếc Mikasa có trọng tải choán nước 15.140 tấn Anh (15.380 t).[53] Mikasa được hoàn thành vào ngày 1 tháng 3 năm 1902.[54] Khi cuộc Chiến tranh Nga-Nhật nổ ra, nó nằm trong Chiến đội thiết giáp thứ nhất thuộc Đệ nhất Hạm đội với vai trò là kỳ hạm của toàn thể Hạm đội Liên hợp dưới sự chỉ huy của Đô đốc Tōgō Heihachirō.[55] Mikasa giúp đánh chìm chiếc Petropavlovsk sau trận cảng Arthur và gây thương tích cho chiếc Poltava và Tsesarevich trong trận Hoàng Hải.[55] Trong trận Tsushima, với vai trò kỳ hạm, Mikasa đã dẫn đầu đoàn tàu chiến bên Nhật và cũng là tàu hứng chịu phần lớn đòn tấn công của hạm đội Nga với khoảng 10 đòn từ pháo 12-inch và 22 đòn từ pháo 6-inch nhưng không bị thương tích nặng.[56] Sáu ngày sau hiệp ước hòa bình được ký kết, Mikasa bị chìm tại cảng sau khi kho đạn tự phát nổ làm tử vong 251 thuyền viên. Nó được mang về Sasebo để sửa chữa và nâng cấp.[57] Khi Hiệp ước Hải quân Washington đang được đàm phán, phái đoàn Nhật đã cố bảo toàn nó bằng việc biến nó thành một tàu bảo tàng và đóng xi măng nó ở Yokosuka nhằm không bị bắt phá hủy theo điều khoản hiệp định. Khi nước Nhật bị chiếm đóng bởi quân Đồng Minh sau Thế chiến thứ II, bảo tàng bị bỏ hoang và trở nên hoang tàn cho đến năm 1955 khi doanh nhân người Mỹ John Rubin viết báo cáo tình trạng chiếc Mikasa đăng lên báo Japan Time.[58] Nó đã khởi đầu cho chiến dịch phục hồi với sự ủng hộ của công chúng Nhật và Đô đốc Mỹ Chester W. Nimitz, một người hâm mộ của đô đốc Togo, và công cuộc phục hồi hoàn thành vào năm 1961.
Tango![]() Tango ban đầu là thiết giáp hạm Poltava (tiếng Nga: Полтава) của Nga, là chiếc thứ hai trong số ba chiếc thiết giáp hạm tiền-Dreadnought lớp Petropavlovsk. Con tàu được điều vào Hải đội Thái Bình Dương ngay sau khi hoàn thành và đóng quân tại cảng Arthur từ năm 1901.[60] Trong cuộc Chiến tranh Nga-Nhật, nó đã tham gia Trận chiến cảng Arthur và bị hư hại nặng nề trong Trận Hoàng Hải. [61][62] Bị pháo binh Nhật Bản đánh chìm trong Cuộc vây hãm cảng Arthur sau đó vào tháng 12 năm 1904, nó đã bị Hải quân Nhật vớt lên sau chiến tranh và sau đó đổi tên thành Tango.[63][64] Trong Thế chiến thứ nhất, Nó tham gia pháo kích công sự của Đế quốc Đức trong trận Thanh Đảo.[65] Năm 1916, Chính phủ Nhật bán lại chiếc Tango cho Nga. Nó được đổi tên lại thành Chesma (Чесма) vì tên cũ của nó đã được đặt cho tàu khác.[64][66] Thủy thủ đoàn của chiếc Chesma tuyên bố đi theo lực lượng Bolshevik[67] vào tháng 10 năm 1917 nhưng con tàu thì không tham chiến cuộc nội chiến Nga do điều kiện xuống cấp. Con tàu cuối cùng bị tháo dỡ năm 1924.[66][68]
Sagami và Suwo![]() Sagami và Suwo ban đầu là hai thiết giáp hạm Peresvet (Пересвет) và Pobeda (Победа) thuộc lớp Peresvet của Hải quân Nga.[73] Lớp Peresvet được thiết kế để đối phó thiết giáp hạm hạng hai lớp Centurion của Anh. Thiết kế lớp Peresvet được giao vai trò bảo vệ tàu các tuần dương bọc thép tấn công thương mại của Nga như chiếc Rossia và Rurik khỏi các tàu hạng nặng như lớp Centurion nói trên.[74] Cả hai tàu đều bị đánh chìm trong Cuộc vây hãm cảng Lữ Thuận nhưng được Hải quân Nhật trục vớt sau khi họ chiếm được cảng. Do vũ khí hạng nhẹ hơn của chúng so với các thiết giáp hạm bắt được còn lại, chúng được chỉ định thành tàu phòng thủ ven bờ.[75] Trong Thế chiến thứ Nhất, chiếc Sagami được bán lại cho Nga và nó được đặt lại tên cũ là Peresvet. Vào ngày 4 tháng 1 năm 1917, Con tàu đang trên đường về châu Âu thì bị dính mìn Đức tại Ai Cập và chìm tại chỗ.[76] Chiếc Suwo thì đóng vai trò là kỳ hạm của hạm đội tấn Thanh Đảo thuộc Hạm đội 2 rồi sau đó được chuyển giao nhiệm vụ thành tàu huấn luyện bắn pháo vào năm 1916. Suwo bị giải giáp theo điều khoản hiệc ước Washington rồi cuối cùng bị tháo dỡ vào năm 1923.[77]
Hizen![]()
Iwami![]()
Lớp Katori![]()
Lớp Satsuma![]()
Thiết giáp hạm loại DreadnoughtLớp Kawachi![]()
Lớp Fusō![]()
Lớp Ise![]()
Lớp Nagato![]()
Lớp Tosa![]()
Lớp Kii
Lớp Số 13![]()
Lớp Yamato![]() Thiết giáp hạm lớp Yamato (大和型戦艦 (Đại Hòa hình chiến hạm) Yamato-gata senkan) được thiết kế và đóng vào những năm 1930 sau khi Nhật rút khỏi Hiệp ước Hải quân Washington. Lớp Yamato có trọng tải choán nước khoảng 72.000 tấn Anh (73.000 t)[110] và dài 263 m. Các tàu trong lớp đều được trang bị 12 nồi hơi Kampon và 4 tuabin hơi nước quay bốn trục cánh quạt cho phép chúng chạy ở vận tốc 27 kn (50 km/h; 31 mph).[111] Thiết kế lớp Yamato yêu cầu sử dụng 410 mm giáp Vickers cường lực cải tiến do Hải quân Nhật phát triển cho giáp đai và tháp pháo dày 650mm ngoại trừ chiếc Shinano có giáp mỏng hơn các tàu tiền nhiệm nhằm phục vụ việc chuyển thể thành tàu sân bay.[112] Yamato và Musashi lúc hoàn thành được trang bị chín khẩu hải pháo 40 cm(kích thước thật 46 cm)/45 Loại 94, khẩu pháo lớn nhất từng được gắn trên bất kì tàu chiến nào, trên ba tháp ba súng và mang các khẩu pháo phụ bao gồm mười hai khẩu 155 mm/50 Loại 3, mười hai khẩu 127 mm/40 Loại 89 và hai mươi bốn pháo phòng không 25 mm Loại 96.[111] Yamato được hoàn thành vào tháng 12 năm 1941 và hoàn thành huấn luyện vào tháng 5 năm 1942. Nó được đưa vào Chiến đội thiết giáp thứ nhất và đóng vai trò là Kỳ hạm của Hạm đội Liên hợp Nhật.[113] Sau đó một tháng, Yamato tham gia Trận Midway với vai trò là trung tâm đầu não của Hạm đội liên hợp và hạm đội của Đô đốc Yamamoto nhưng không giao tranh trực tiếp với Hải quân Mỹ.[114] Đến đầu năm 1943, Musashi sau khi hoàn thành huấn luyện đã thay thế Yamato trong vai trò Kỳ hạm của Hạm đội Liên hợp.[113] Cả hai tàu cùng lớp luôn luân phiên nhau di chuyển giữa Kure và Truk trong suốt năm 1943 chỉ có một sự kiện duy nhất là khi Yamato bị dính ngư lôi từ tàu ngầm Mỹ.[113] Cả hai tàu cùng lớp đều tham gia chiến dịch ở Vịnh Leyte vào tháng 10 năm 1944 dưới sự chỉ huy của Đô đốc Kurita nhưng Musashi thì bị đánh chìm sau khi dính 17 trái bom và 19 ngư lôi ở Sibuyan còn Yamato thì bị đẩy lùi bởi Hạm đội hộ tống Mỹ tại Samar.[115] Một tháng sau, chiếc Shinano chưa hoàn thành bị tàu ngầm Mỹ USS Archer-fish đánh chìm khi đang trên đường đi trú bom.[116] Trận chiến cuối cùng của lớp Yamato là vào tháng 10 năm 1945 trong chiến dịch Ten-Go, khi Yamato và đội hộ tống bị tấn công bởi 368 máy bay từ 11 tàu sân bay Mỹ và chìm sau khi dính 8 quả ngư lôi và 15 trái bom.[117]
Thiết kế A-150"Thiết kế A-150", thường được gọi là lớp Siêu Yamato, là lớp thiết giáp hạm được thiết kế để tiếp nối lớp Yamato. Theo truyền thống lâu đời của Hải quân Nhật, chúng được thiết kế để vượt trội về mặt chất lượng so với các thiết giáp hạm mà có thể phải đối mặt trong chiến đấu, chẳng hạn như các tàu từ Hoa Kỳ hoặc Vương quốc Anh. Để đạt được yêu cầu này, lớp sẽ được trang bị sáu khẩu súng 51 cm, loại vũ khí lớn nhất trang bị trên bất kỳ tàu chiến nào trên thế giới. Công việc thiết kế những chiếc A-150 bắt đầu sau khi lớp Yamato trước đó hầu hết được hoàn thành vào đầu năm 1941, khi người Nhật bắt đầu tập trung vào hàng không mẫu hạm và các tàu chiến nhỏ khác để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh sắp tới. Không có chiếc A-150 nào được hạ lườn, và nhiều chi tiết về thiết kế của lớp đã bị phá hủy gần cuối cuộc chiến.
Xem thêmGhi chúTrích dẫn
Tham khảo
Tin tức
Combined Fleet
|
Portal di Ensiklopedia Dunia