Kiến Phong
Kiến Phong là một tỉnh cũ của Việt Nam Cộng hòa. Địa lýTỉnh Kiến Phong có vị trí địa lý:
Đất đai tỉnh Kiến Phong vốn là phần đất nằm ở bờ bắc sông Tiền của các tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc trước kia. Hành chínhTỉnh Kiến Phong có thị xã Cao Lãnh và 6 huyện: Cao Lãnh, Đồng Tiến, Hồng Ngự, Kiến Văn, Mỹ An, Thanh Bình.
Lịch sửGiai đoạn 1956–1975Việt Nam Cộng hòaNgày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ban hành Sắc lệnh số 143-NV[1] về việc:
Năm 1957, tỉnh Kiến Phong gồm 4 quận, 8 tổng, 43 xã.
Ngày 21 tháng 7 năm 1960, tỉnh Kiến Phong có 4 quận, 10 tổng, 43 xã.
Ngày 13 tháng 7 năm 1961, lập thêm quận Kiến Văn do tách từ quận Cao Lãnh ra, quận lỵ tại xã Bình Hàng Trung. Quận Kiến Văn bao gồm toàn bộ tổng Phong Nẫm (6 xã) và 1 xã của tổng An Tịnh. Sau đó lại lập thêm quận Đồng Tiến do tách đất từ quận Thanh Bình. Chính quyền Cách mạngChính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cũng phân chia, sắp xếp lại các đơn vị hành chính trong tỉnh như bên chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Cuối năm 1956, chính quyền Cách mạng thành lập tỉnh Kiến Phong. Tỉnh Kiến Phong khi đó gồm các đơn vị hành chính trực thuộc: thị xã Cao Lãnh, huyện Cao Lãnh, huyện Mỹ An (ngày nay là huyện Tháp Mười), huyện Kiến Văn, huyện Thanh Bình, huyện Hồng Ngự. Tháng 12 năm 1965, tỉnh Kiến Phong nhận thêm huyện Chợ Mới từ tỉnh An Giang. Sau năm 1965, giải thể tất cả các tổng. Tỉnh Kiến Phong có diện tích 2.621 km² (có tài liệu ghi 2.515 km²). Dân số năm 1965 là 405.200 người. ![]() Ngày 5 tháng 5 năm 1969, tỉnh Kiến Phong thành lập thêm huyện Tam Nông, tương ứng với địa bàn quận Đồng Tiến của chính quyền Việt Nam Cộng hòa lúc bấy giờ. Tam Nông vốn là tên một huyện của tỉnh Phú Thọ kết nghĩa với tỉnh Kiến Phong trong thời kỳ đấu tranh chống lại quân đội Hoa Kỳ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam. Năm 1970, tỉnh Kiến Phong có:
Tháng 8 năm 1974, Trung ương Cục miền Nam ban hành Quyết định về việc giải thể các tỉnh Kiến Phong và An Giang để tái lập các tỉnh Long Châu Tiền và tỉnh Sa Đéc.
Phần lớn đất đai tỉnh Kiến Phong phía Đông là đầm lầy, rừng tràm rộng lớn, gọi là Đồng Tháp Mười, ăn lan qua tỉnh Kiến Tường và Định Tường. Đây vùng này rất hiểm yếu, thường là căn cứ kháng chiến chống thực dân Pháp, quân đội Hoa Kỳ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa của lực lượng chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Năm 1975, tỉnh Kiến Phong có 2.657,3 km², diện tích tự nhiên và dân số là 445.599 người.[3] Ngày 20 tháng 9 năm 1975, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 245-NQ/TW[5] về việc hợp nhất tỉnh Long Châu Tiền, tỉnh Sa Đéc và tỉnh Kiến Tường sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh, tên gọi tỉnh mới cùng với nơi đặt tỉnh lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên. Ngày 20 tháng 12 năm 1975, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 19/NQ[6] về việc hợp nhất một phần của tỉnh Sa Đéc và tỉnh Kiến Phong thành một tỉnh. Sau năm 1975Ngày 24 tháng 2 năm 1976, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban hành Nghị định số 3/NQ/1976[2] về việc hợp nhất một phần của tỉnh Sa Đéc và tỉnh Kiến Phong thành một tỉnh mới, lấy tên là tỉnh Đồng Tháp, với tỉnh lỵ ban đầu đặt tại thị xã Sa Đéc. Địa bàn tỉnh Kiến Phong cũ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa tương ứng với các đơn vị hành chính trực thuộc nằm phía Bắc sông Tiền của tỉnh Đồng Tháp ngày nay là 2 thành phố: Cao Lãnh, Hồng Ngự và 6 huyện: Cao Lãnh, Tháp Mười, Thanh Bình, Tam Nông, Hồng Ngự, Tân Hồng. Xem thêmChú thích
Tham khảo
|
Portal di Ensiklopedia Dunia