Lãnh thổ Montana
Lãnh thổ Montana (tiếng Anh: Montana Territory hay Territory of Montana) từng là một lãnh thổ hợp nhất có tổ chức của Hoa Kỳ, tồn tại từ 28 tháng 5 năm 1864 cho đến 8 tháng 11 năm 1889 khi nó được phép gia nhập liên bang để trở thành tiểu bang Montana. Lịch sửLãnh thổ Montana được thành lập từ đất đai của Lãnh thổ Idaho theo một đạo luật của Quốc hội Hoa Kỳ và được tổng thống Abraham Lincoln ký thành luật ngày 26 tháng 5 năm 1864. Các khu vực đất nằm ở phía đông Đường phân thủy Lục địa Bắc Mỹ trước đó từng là một phần của Lãnh thổ Nebraska và Lãnh thổ Dakota. Nguyên thủy các khu vực vừa kể đều là một phần đất của Cấu địa Louisiana mà Hoa Kỳ mua của Pháp. Lãnh thổ cũng bao gồm một phần đất của Lãnh thổ Idaho nằm ở phía tây đường phân thủy lục địa và ở phía đông Dãy núi Bitterroot. Hoa Kỳ thu được vùng này theo Hiệp định Oregon và nguyên thủy nó là thuộc Xứ Oregon. Phần đất của Xứ Oregon mà sau này trở thành một phần của Lãnh thổ Montana trước đó được tách ra làm một phần đất của Lãnh thổ Washington. Ranh giới giữa Lãnh thổ Washington và Lãnh thổ Dakota là Đường phân thủy Lục địa Bắc Mỹ (như được biểu thị trong bản đồ năm 1861). Tuy nhiên, ranh giới giữa Lãnh thổ Idaho và Lãnh thổ Montana đi theo Dãy núi Bitterroot nằm ở phía bắc vĩ độ 46°30′ bắc (được biểu thị trên bản đồ 1864). Truyền thuyết dân gian có kể rằng một nhóm khảo sát say rượu đã đi nhầm theo một ngọn núi và đã lầm lẫn di dời ranh giới về hướng tây vào trong Dãy núi Bitterroot. Trái ngược với truyền thuyết, ranh giới chính xác là nơi mà Quốc hội Hoa Kỳ có ý định phân giới. Đạo luật tổ chức Lãnh thổ Montana[1] phân định ranh giới mở rộng từ nơi giao cắt của các tiểu bang Montana, Idaho, và Wyoming hiện thời ở:
Các ranh giới của lãnh thổ không thay đổi trong suốt thời gian tồn tại. Lãnh thổ được phép gia nhập liên bang để trở thành tiểu bang Montana vào ngày 8 tháng 11 năm 1889.
Xem thêm
Tham khảo
Liên kết ngoài
|
Portal di Ensiklopedia Dunia