Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc, viết tắt UNESCO là một trong những tổ chức chuyên môn lớn của Liên Hợp Quốc, được thành lập vào năm 1945 nhằm thúc đẩy hòa bình và an ninh thế giới thông qua hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực giáo dục, khoa học, văn hóa và thông tin.[1][2] UNESCO hiện có 195 quốc gia thành viên[3][4] và 12 quan sát viên. Trụ sở chính của tổ chức đặt tại Paris, Pháp. UNESCO có 53 văn phòng thực địa khu vực[5] và 199 ủy ban quốc gia để hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ toàn cầu của tổ chức.[6][7]
UNESCO được thành lập vào năm 1945 với tư cách là tổ chức kế thừa Ủy ban Quốc tế về Hợp tác Trí tuệ của Hội Quốc Liên.[8] Điều lệ của tổ chức xác định các mục tiêu, cơ cấu quản trị và khuôn khổ hoạt động của cơ quan này.[9] Nhiệm vụ sáng lập của UNESCO, được định hình bởi Chiến tranh thế giới thứ hai, là thúc đẩy hòa bình, phát triển bền vững và nhân quyền bằng cách tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác và đối thoại giữa các quốc gia.[9] UNESCO theo đuổi mục tiêu này thông qua năm lĩnh vực chương trình chính: giáo dục, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội/nhân văn, văn hóa và truyền thông/thông tin. UNESCO tài trợ các dự án nhằm nâng cao khả năng đọc viết, cung cấp đào tạo kỹ thuật và giáo dục, thúc đẩy khoa học, bảo vệ truyền thông độc lập và tự do báo chí, bảo tồn lịch sử khu vực và văn hóa, đồng thời thúc đẩy sự đa dạng văn hóa.[10][11][12]
Với vai trò là trung tâm của văn hóa và khoa học thế giới, UNESCO đã mở rộng hoạt động của mình trong những năm qua. Tổ chức hỗ trợ dịch thuật và phổ biến văn học thế giới, giúp thành lập và bảo vệ các Di sản Thế giới có tầm quan trọng về văn hóa và tự nhiên, nỗ lực thu hẹp khoảng cách kỹ thuật số trên toàn cầu và tạo ra các xã hội tri thức toàn diện thông qua thông tin và truyền thông.[13] UNESCO đã khởi xướng một số sáng kiến và phong trào toàn cầu, chẳng hạn như Giáo dục cho mọi người, để thúc đẩy hơn nữa các mục tiêu cốt lõi của mình
UNESCO được điều hành bởi Đại hội đồng, gồm các đại diện của tất cả các quốc gia thành viên và quan sát viên. Hội nghị đại biểu họp hai năm một lần để thông qua chương trình và ngân sách của UNESCO. Hội nghị cũng bầu các thành viên của Ban chấp hành, cơ quan quản lý công việc của UNESCO và bổ nhiệm Tổng giám đốc, người đứng đầu UNESCO. UNESCO là thành viên của Nhóm Phát triển Liên Hợp Quốc,[14] một liên minh các cơ quan và tổ chức của Liên hợp quốc nhằm thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững.
Chức năng
UNESCO có 3 chức năng hoạt động chính phục vụ cho mục đích của tổ chức, bao gồm:
Khuyến khích sự hiểu biết và thông cảm lẫn nhau giữa các dân tộc thông qua những phương tiện thông tin rộng rãi; khuyến nghị những hiệp định quốc tế cần thiết để khuyến khích tự do giao lưu tư tưởng bằng ngôn ngữ và hình ảnh;
Thúc đẩy mạnh mẽ việc giáo dục quần chúng và truyền bá văn hóa bằng cách:
Hợp tác với các nước thành viên trong việc phát triển các hoạt động giáo dục theo yêu cầu của từng nước;
Hợp tác giữa các quốc gia nhằm thực hiện từng bước lý tưởng bình đẳng về giáo dục cho mọi người, không phân biệt chủng tộc, namnữ hoặc bất cứ sự khác biệt nào khác về kinh tế hay xã hội;
Đề xuất những phương pháp giáo dục thích hợp để luyện tập thiếu nhi toàn thế giới về trách nhiệm của con người tự do;
Duy trì, tăng cường và truyền bá kiến thức bằng cách:
Khuyến khích hợp tác giữa các quốc gia về tất cả các ngành hoạt động trí óc, trao đổi quốc tế những người có kinh nghiệm trong lĩnh vực giáo dục, khoa học và văn hóa kể cả trao đổi sách báo, tác phẩm nghệ thuật, dụng cụ thí nghiệm và mọi tư liệu có ích;
Tạo điều kiện thuận lợi cho các dân tộc tiếp xúc với các xuất bản phẩm của mỗi nước thông qua các phương pháp hợp tác quốc tế thích hợp.
Nguồn: Công ước thành lập UNESCO
Cơ cấu
UNESCO được tổ chức với một Đại hội đồng, một Hội đồng Chấp hành và một Ban Thư ký. Đại hội đồng gồm các đại diện của các nước thành viên UNESCO (mỗi nước thành viên được chọn cử 5 đại biểu). Hội đồng Chấp hành gồm các ủy viên được Đại hội đồng bầu ra trong số các đại biểu được các nước thành viên ứng cử; mỗi ủy viên của Hội đồng Chấp hành đại diện cho Chính phủ nước mình. Ban Thư ký UNESCO gồm có Tổng Giám đốc và số nhân viên được thừa nhận là cần thiết. Tổng Giám đốc do Hội đồng Chấp hành đề nghị và Đại hội đồng bầu cử (nhiệm kỳ 6 năm) với những điều kiện được Đại hội đồng chấp nhận. Tổng Giám đốc là viên chức cao nhất của UNESCO.
Hiện UNESCO có 195 quốc gia là thành viên. Các quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc có quyền gia nhập UNESCO; còn các quốc gia khác có thể được chấp nhận nếu được Hội đồng Chấp hành giới thiệu và được Đại hội đồng biểu quyết với đa số hai phần ba thành viên có mặt tán thành.
Các quốc gia thành viên thường thành lập một tổ chức đại diện cho UNESCO ở nước mình, tùy điều kiện cụ thể. Phổ biến hiện nay là Ủy ban quốc gia UNESCO, trong đó có đại diện của Chính phủ và của các ngành Giáo dục, Khoa học, Văn hóa và Thông tin. Tuy có đại diện tại từng quốc gia, phương châm hoạt động của UNESCO là không can thiệp vào vấn đề nội bộ của các quốc gia. Ủy ban quốc gia UNESCO làm nhiệm vụ cố vấn cho đoàn đại biểu nước mình ở Đại hội đồng và cho Chính phủ trong các vấn đề liên quan đến UNESCO. Ủy ban này thường gồm đại diện các Vụ, Cục, các Bộ, các cơ quan và tổ chức khác quan tâm đến các vấn đề giáo dục, khoa học, văn hóa và thông tin, các nhân vật độc lập tiêu biểu cho các giới liên quan. Nó cũng có thể bao gồm Ban chấp hành thường trực, các cơ quan phối hợp, các tiểu bang và các cơ quan phụ cần thiết khác.
Lịch sử
Nguồn gốc
Sứ mệnh hợp tác quốc tế của UNESCO có thể bắt nguồn từ một nghị quyết của Hội Quốc Liên vào ngày 21 tháng 9 năm 1921. Nghị quyết này đã bầu chọn một Ủy ban để nghiên cứu tính khả thi của việc các quốc gia tự do chia sẻ những thành tựu văn hóa, giáo dục và khoa học.[15][16] Cơ quan mới này, Ủy ban Hợp tác Trí tuệ Quốc tế (ICIC), được thành lập vào năm 1922[17] và có sự tham gia của những nhân vật nổi tiếng như Henri Bergson, Albert Einstein, Marie Curie, Robert A. Millikan và Gonzague de Reynold (do đó là một ủy ban nhỏ của Hội Quốc Liên chủ yếu tập trung vào Tây Âu[18]). Sau đó, Viện Hợp tác Trí tuệ Quốc tế (IIIC) được thành lập tại Paris vào tháng 9 năm 1924, để đóng vai trò là cơ quan thực thi cho ICIC.[19] Tuy nhiên, sự bùng nổ của Thế chiến II phần lớn đã cản trở công việc của các tổ chức tiền nhiệm này.[20] Đối với các sáng kiến tư nhân, Văn phòng Giáo dục Quốc tế (IBE) bắt đầu hoạt động như một tổ chức phi chính phủ phục vụ sự phát triển giáo dục quốc tế kể từ tháng 12 năm 1925[21] và gia nhập UNESCO vào năm 1969, sau khi thành lập một ủy ban chung vào năm 1952.
Sự hình thành
Sau khi Tuyên ngôn Atlantic và Tuyên ngôn Liên Hợp Quốc được ký kết, Hội nghị Bộ trưởng Giáo dục Đồng minh (CAME) bắt đầu họp tại London từ ngày 16 tháng 11 năm 1942 đến ngày 5 tháng 12 năm 1945. Ngày 30 tháng 10 năm 1943, nhu cầu về một tổ chức quốc tế được thể hiện trong Tuyên bố Moscow, được ký bởi Trung Quốc, Vương quốc Anh, Hoa Kỳ và Liên Xô. Trước đó, vào ngày 9 tháng 10 năm 1944, Hội nghị Dumbarton Oaks đã đưa ra các đề xuất về việc thành lập một tổ chức giáo dục và văn hóa. Sau đó, theo đề xuất của CAME và phù hợp với các khuyến nghị của Hội nghị Liên hợp quốc về Tổ chức Quốc tế (UNCIO) được tổ chức tại San Francisco từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1945, Hội nghị Liên hợp quốc về thành lập một tổ chức giáo dục và văn hóa (ECO/CONF) đã được triệu tập tại London từ ngày 1 đến ngày 16 tháng 11 năm 1945 với sự tham gia của 44 chính phủ. Ý tưởng thành lập UNESCO được Rab Butler, Bộ trưởng Giáo dục Vương quốc Anh, phát triển vào năm 1945.[22] Tại Hội nghị ECO/CONF, Hiến chương UNESCO đã được giới thiệu và ký kết bởi 37 quốc gia. Sau đó, Ủy ban Chuẩn bị đã được thành lập để chuẩn bị cho việc thành lập UNESCO.[23] Ủy ban này hoạt động từ ngày 16 tháng 11 năm 1945 đến ngày 4 tháng 11 năm 1946, khi Hiến chương UNESCO có hiệu lực với việc nộp phê chuẩn thứ hai mươi của một quốc gia thành viên.[24]
Hội nghị Đại hội đồng đầu tiên của UNESCO được tổ chức tại Paris từ ngày 19 tháng 11 đến ngày 10 tháng 12 năm 1946. Tại hội nghị này, Julian Huxley đã được bầu làm Tổng Giám đốc UNESCO.[25] Đại tá Hoa Kỳ, hiệu trưởng đại học và nhà hoạt động dân quyền Blake R. Van Leer cũng tham gia hội nghị với tư cách là thành viên.[26] Hiến chương UNESCO được sửa đổi vào tháng 11 năm 1954, theo đó Hội nghị Đại hội đồng quyết định các thành viên của Ban Chấp hành sẽ là đại diện của chính phủ các quốc gia mà họ là công dân và sẽ không còn hành động với tư cách cá nhân như trước đây.[27] Sự thay đổi trong cơ chế quản trị này đã phân biệt UNESCO với tổ chức tiền thân của nó, ICIC, về cách các quốc gia thành viên sẽ hợp tác với nhau trong các lĩnh vực chuyên môn của tổ chức. Khi các quốc gia thành viên hợp tác cùng nhau theo thời gian để thực hiện sứ mệnh của UNESCO, các yếu tố chính trị và lịch sử đã định hình hoạt động của tổ chức, đặc biệt là trong Chiến tranh Lạnh, quá trình phi thực dân hóa và sự sụp đổ của Liên Xô.[28]
Phát triển
Một trong những thành tựu quan trọng nhất của tổ chức là công tác chống phân biệt chủng tộc. Tổ chức đã ban hành nhiều tuyên bố có ảnh hưởng về chủng tộc, bắt đầu với Tuyên bố của các nhà nhân chủng học và các nhà khoa học khác vào năm 1950 và kết thúc với Tuyên bố năm 1978 về Chủng tộc và Định kiến về Chủng tộc.
Năm 1956, Nam Phi rút khỏi UNESCO vì cho rằng một số ấn phẩm của tổ chức này can thiệp vào vấn đề phân biệt chủng tộc của đất nước. Nam Phi gia nhập lại UNESCO vào năm 1994 dưới sự lãnh đạo của Nelson Mandela.[29]
Những hoạt động ban đầu của UNESCO trong lĩnh vực giáo dục bao gồm một dự án thí điểm về giáo dục cơ bản tại Thung lũng Marbial, Haiti, bắt đầu vào năm 1947. Dự án này được tiếp nối bởi các phái đoàn chuyên gia đến các quốc gia khác, bao gồm, ví dụ, một phái đoàn đến Afghanistan vào năm 1949. Năm 1948, UNESCO khuyến nghị các quốc gia thành viên nên bắt buộc và phổ cập giáo dục tiểu học miễn phí. Năm 1990, Hội nghị Thế giới về Giáo dục cho Tất cả, tại Jomtien, Thái Lan, đã phát động một phong trào toàn cầu nhằm cung cấp giáo dục cơ bản cho tất cả trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Mười năm sau, Diễn đàn Giáo dục Thế giới năm 2000 được tổ chức tại Dakar, Senegal, đã dẫn dắt các chính phủ thành viên cam kết đạt được giáo dục cơ bản cho tất cả mọi người vào năm 2015.
Các hoạt động ban đầu của UNESCO trong lĩnh vực văn hóa tập trung vào việc bảo tồn di sản văn hóa. Năm 1960, UNESCO đã khởi động Chiến dịch Quốc tế Cứu hộ Di tích Nubia để di dời Đền thờ Abu Simbel vĩ đại khỏi nguy cơ bị nhấn chìm bởi sông Nile sau khi xây dựng Đập Aswan. Chiến dịch này đã kéo dài 20 năm và thành công trong việc di dời 22 di tích và quần thể kiến trúc. Đây là chiến dịch đầu tiên và lớn nhất trong một loạt các chiến dịch bảo tồn di sản văn hóa của UNESCO, bao gồm Mohenjo-daro (Pakistan), Fes (Morocco), Kathmandu (Nepal), Borobudur (Indonesia) và Thành phòng thủ của Athens (Hy Lạp).[30] Công việc của tổ chức về di sản đã dẫn đến việc thông qua Công ước về Bảo vệ Di sản Văn hóa và Thiên nhiên Thế giới vào năm 1972. Ủy ban Di sản Thế giới được thành lập vào năm 1976 và các di sản đầu tiên được ghi vào Danh sách Di sản Thế giới vào năm 1978. Kể từ đó, các văn kiện pháp lý quan trọng về di sản văn hóa và sự đa dạng đã được các quốc gia thành viên UNESCO thông qua vào năm 2003 (Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể) và năm 2005 (Công ước bảo vệ và thúc đẩy sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa).
Cuộc họp liên chính phủ của UNESCO tại Paris vào tháng 12 năm 1951 đã dẫn đến việc thành lập Hội đồng Nghiên cứu Hạt nhân châu Âu, tổ chức này chịu trách nhiệm thành lập Tổ chức Nghiên cứu Hạt nhân châu Âu (CERN) sau này, vào năm 1954.[31] Chương trình Khu vực hạn hán, 1948–1966, là một ví dụ khác về dự án lớn ban đầu của UNESCO trong lĩnh vực khoa học tự nhiên.
Năm 1968, UNESCO tổ chức hội nghị liên chính phủ đầu tiên nhằm mục đích dung hòa môi trường và phát triển, một vấn đề vẫn tiếp tục được giải quyết trong lĩnh vực phát triển bền vững. Kết quả chính của hội nghị năm 1968 là việc thành lập Chương trình Con người và Sinh quyển (MAB) của UNESCO.[32] UNESCO đã được ghi nhận là tổ chức thúc đẩy sự phát triển của các cơ quan nghiên cứu khoa học quốc gia.[33]
Trong lĩnh vực truyền thông, UNESCO luôn đề cao "sự lưu thông tự do của các ý tưởng bằng lời nói và hình ảnh". Điều này xuất phát từ kinh nghiệm của Chiến tranh thế giới thứ hai, khi kiểm soát thông tin là một yếu tố dẫn đến việc nhồi nhét tư tưởng cho dân chúng để xâm lược. Trong những năm ngay sau chiến tranh, UNESCO tập trung vào việc tái thiết và xác định nhu cầu về các phương tiện truyền thông đại chúng trên toàn thế giới. UNESCO bắt đầu tổ chức các chương trình đào tạo và giáo dục cho các nhà báo vào những năm 1950. Đáp lại những kêu gọi về một "Trật tự Thông tin và Truyền thông Thế giới Mới" vào cuối những năm 1970, UNESCO đã thành lập Ủy ban Quốc tế về Nghiên cứu Các vấn đề Truyền thông, tổ chức này đã cho ra đời Báo cáo MacBride năm 1980 (được đặt theo tên của chủ tịch ủy ban, người đoạt Giải Nobel Hòa bình Seán MacBride). Năm 1980, UNESCO thành lập Chương trình Phát triển Truyền thông Quốc tế (IPDC) để thúc đẩy sự phát triển của truyền thông ở các nước đang phát triển. Năm 1991, UNESCO đã thông qua Tuyên bố Windhoek về độc lập và đa nguyên của báo chí, dẫn đến việc Đại hội đồng Liên hợp quốc tuyên bố ngày 3 tháng 5, ngày thông qua Tuyên bố, là Ngày Tự do Báo chí Thế giới. Kể từ năm 1997, UNESCO đã trao Giải thưởng Tự do Báo chí Thế giới UNESCO / Guillermo Cano vào mỗi ngày 3 tháng 5.
Thế kỷ 21
UNESCO đã kết nạp Palestine trở thành thành viên vào năm 2011.[34][35] Các luật được thông qua tại Hoa Kỳ sau khi Palestine nộp đơn xin gia nhập UNESCO và WHO vào tháng 4 năm 1989[36][37] có nghĩa là Hoa Kỳ không thể đóng góp tài chính cho bất kỳ tổ chức Liên Hợp Quốc nào chấp nhận Palestine là thành viên chính thức.[38][39] Kết quả là, Hoa Kỳ đã rút lại nguồn tài trợ của mình, chiếm khoảng 22% ngân sách của UNESCO.[40] Israel cũng phản ứng trước việc Palestine được kết nạp vào UNESCO bằng cách đóng băng các khoản thanh toán của Israel cho UNESCO và áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với Chính quyền Palestine,[41] tuyên bố rằng việc kết nạp Palestine sẽ gây bất lợi cho 'các cuộc đàm phán hòa bình tiềm tàng'.[42] Hai năm sau khi ngừng đóng hội phí cho UNESCO, Hoa Kỳ và Israel đã mất quyền bỏ phiếu của UNESCO vào năm 2013 mà không mất quyền được bầu; do đó, Hoa Kỳ đã được bầu làm thành viên của ban chấp hành cho giai đoạn 2016-2019.[43] Năm 2019, Israel rời khỏi UNESCO sau 69 năm là thành viên, với đại sứ Israel tại Liên Hợp Quốc Danny Danon viết: "UNESCO là cơ quan liên tục viết lại lịch sử, bao gồm cả việc xóa bỏ mối liên hệ của người Do Thái với Jerusalem ... nó bị các kẻ thù của Israel làm hư hỏng và thao túng ... chúng tôi sẽ không trở thành thành viên của một tổ chức cố tình hành động chống lại chúng tôi ".[44]
Thành viên
Các quốc gia thành viên UNESCO
Lãnh thổ phụ thuộc của quốc gia thành viên UNESCO có NOC riêng
Các đối tác UNESCO
Quan sát viên UNESCO
Tính đến tháng 2 năm 2024, UNESCO có 195 quốc gia thành viên và 12 quan sát viên[45]. Một số thành viên không phải là quốc gia độc lập và một số thành viên có Ủy ban Tổ chức Quốc gia bổ sung từ một số lãnh thổ phụ thuộc của họ.[46] Các quốc gia thành viên UNESCO là các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc (trừ Israel[47] và Liechtenstein), cũng như Quần đảo Cook, Niue và Palestine.[48][49]Hoa Kỳ và Israel đã rời UNESCO vào ngày 31 tháng 12 năm 2018,[50][51] nhưng Hoa Kỳ đã gia nhập lại vào năm 2023.[52][53]
Các tổ chức phi chính phủ UNESCO NGO
UNESCO có quan hệ chính thức với 322 tổ chức phi chính phủ quốc tế (NGO).[54] Phần lớn số đó được UNESCO gọi là "operational", và một số chọn lọc là "formal".[55]
Mức quan hệ cao nhất với UNESCO là "formal associate" và có 22 NGO như vậy[56].
Hội đồng Chấp hành được bầu tại kỳ họp của Đại hội đồng UNESCO. Mỗi ủy viên được bầu đảm trách nhiệm kỳ 4 năm, tính từ 01 tháng 1 năm sau trúng cử. Kỳ họp tháng 11/2015 chưa có kết quả cuối cùng.
The Garden of Peace, tại trụ sở chính của UNESCO, Paris. Được chính phủ Nhật Bản tài trợ, vườn hoa này được Isamu Noguchi, một nhà điêu khắc mang hai dòng máu Mỹ-Nhật thiết kế và được Toemon Sano, một người làm vườn Nhật Bản thực hiện.
UNESCO's field offices are categorized into four primary office types based upon their function and geographic coverage: cluster offices, national offices, regional bureaux and liaison offices.
Các văn phòng theo vùng
Danh sách sau đây bao gồm tất cả các văn phòng UNESCO được phân chia theo vùng và được đánh dấu bằng tên các nước văn phòng đó phục vụ.[75]
Venice – Cục Khoa học và Văn hóa khu vực ở Châu Âu
Mỹ Latinh và quần đảo Caribê
Carondelet Palace, Presidential Palace – with a double decker tourist bus. The Historic Center of Quito is one of the largest, least-altered và best-preserved historic centers in the Americas.[76] This center was, together with the historic centre of Kraków in Polvà, the first to be declared World Heritage Site by UNESCO on ngày 18 tháng 9 năm 1978.
Các Đại sứ thiện chí của UNESCO là người sử dụng tài năng hay sự nổi tiếng của mình để truyền bá tư tưởng của UNESCO, đặc biệt là thu hút sự chú ý của giới truyền thông. Chất chuyên ngành khác nhau của người ủng hộ bao gồm những ngưới hoạt động vì hòa bình, hoạt động thể thao, hay làm Đặc phái viên cho UNESCO.
Danh sách giải thưởng UNESCO
UNESCO có 22 giải thưởng[77] trong các lĩnh vực giáo dục, khoa học, văn hóa và hòa bình:
Trong những năm 1970 và 1980, UNESCO hỗ trợ cho một "Trật tự thông tin và truyền thông thế giới mới" (New World Information and Communication Order), và báo cáo MacBride (MacBride report) của nó kêu gọi dân chủ hóa phương tiện truyền thông và tiếp cận bình đẳng hơn với các thông tin, đã bị lên án ở các nước vốn có nỗ lực kiềm chế tự do báo chí.
UNESCO đã được một số nước cảm nhận như là sân đấu cho các nước cộng sản và các nhà độc tài của thế giới Thứ ba để tấn công phương Tây[78]. Nó thể hiện rõ rệt trong tố cáo của Liên Xô vào những năm cuối thập niên 1940 và đầu những năm 1950. Năm 1984, Hoa Kỳ đã cắt giảm của mình đóng góp và rồi rút lui khỏi UNESCO để phản đối, tiếp theo năm 1985 là Vương quốc Anh. Singapore cũng rút theo, với lý do phí thành viên tăng.[79]
Sau khi thay đổi chính phủ trong năm 1997, Anh gia nhập trở lại. Hoa Kỳ gia nhập lại vào năm 2003, tiếp theo là Singapore ngày 08/10/2007.
Israel
Wikileaks và UNESCO
Vào ngày 16 và 17 tháng 2 năm 2012, UNESCO đã tổ chức một hội nghị mang tên Truyền thông thế giới sau WikiLeaks và Tin tức thế giới (The Media World after WikiLeaks and News of the World). Mặc dù tất cả sáu tấm áp phích đều tập trung về WikiLeaks, nhưng lại không có ai từ WikiLeaks được mời là diễn giả. Sau khi nhận được đơn khiếu nại từ người phát ngôn WikiLeaksKristinn Hrafnsson, UNESCO đã mời ông tham dự, nhưng không đưa ra bất kỳ một vị trí trên bảng.[80] Các đề nghị cũng chỉ được đưa ra một tuần trước khi hội nghị được tổ chức tại Paris, Pháp. Những diễn giả khác như David Leigh và Heather Brooke thì lên tiếng công khai chống lại WikiLeaks và người sáng lập Julian Assange trong quá khứ.
WikiLeaks phát hành một thông cáo báo chí vào ngày 15/02/2012 tố cáo UNESCO trong đó nói: "UNESCO đã tự biến mình thành một trò đùa về nhân quyền quốc tế. Sử dụng "tự do ngôn luận" để kiểm duyệt WikiLeaks từ một hội nghị về WikiLeaks là một điều Orwellian ngớ ngẩn vượt mọi ngôn từ. Đây là một sự lạm dụng quá quắt Hiến chương UNESCO. Đây là thời gian để chiếm UNESCO."[81] Kèm theo tuyên bố là email trao đổi của người phát ngôn WikiLeaks Kristinn Hrafnsson và ban tổ chức hội nghị UNESCO.
^"UNESCO history". UNESCO. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
^"National Commissions". UNESCO (bằng tiếng Anh). ngày 28 tháng 9 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2020.
^"UNDG Members". United Nations Development Group. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2010.
^Plenary Meetings, Records of the Second Assembly, Geneva: League of Nations, 5 September – 5 October 1921
^A Chronology of UNESCO: 1945–1987(PDF), UNESDOC database, Paris, tháng 12 năm 1987, LAD.85/WS/4 Rev, lưu trữ(PDF) bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2011, truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2010, The International Committee on Intellectual Cooperation (ICIC) was created on 4 January 1922, as a consultative organ composed of individuals elected based on their personal qualifications.{{Chú thích}}: Quản lý CS1: địa điểm thiếu nhà xuất bản (liên kết).
^General Conference, First Session(PDF). UNESDOC database. UNESCO House, Paris: UNESCO. 1947. Item 14, p. 73. Lưu trữ(PDF) bản gốc ngày 4 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2012.
^Summary Minutes of Meetings 1956. United States National Commission for the United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization. 1956. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2021.