Tác phẩm của họa sĩ về hệ thống vành đai - vệ tinh của Sao Thổ
Tác phẩm của họa sĩ về Sao Thổ, vành đai và các vệ tinh băng chính của nó - tính từ Mimas tơí Rhea
Các vệ tinh tự nhiên của Sao Thổ rất đa dạng, từ các tiểu vệ tinh nhỏ hơn 1 kilômét (0,62 mi) cho đến Titan khổng lồ, thậm chí còn lớn hơn cả Sao Thủy. Sao Thổ có 274
vệ tinh có quỹ đạo được xác nhận.[1] Con số này không bao gồm hàng nghìn tiểu vệ tinh (moonlet) nằm bên trong vành đai dày đặc của Sao Thổ, cũng không bao gồm hàng trăm vệ tinh xa xôi tiềm năng cỡ vài kilômét đã được quan sát trong sự kiện che khuất.[2][3][4] Sao Thổ có 7 vệ tinh có khối lượng đủ lớn để đạt đến trạng thái cân bằng thủy tĩnh, và các vành đai dày đặc với chuyển động quỹ đạo phức tạp của riêng mình. Đặc biệt đáng chú ý trong số các vệ tinh của Sao Thổ là Titan, vệ tinh lớn thứ hai trong Hệ Mặt Trời, với một khí quyển kiểu Trái Đất và một quan cảnh bao gồm các hydrocarbon và các mạng lưới sông khô, và Enceladus, phát ra các luồng khí và bụi và có thể ẩn giấu nước lỏng dưới vùng cực nam.
Các vành đai của Sao Thổ được tạo thành từ các vật thể có kích thước từ kính hiển vi đến các mặt trăng nhỏ rộng hàng trăm mét, mỗi vòng trên quỹ đạo riêng của nó quanh Sao Thổ. Do đó, không thể đưa ra một số lượng chính xác các vệ tinh của Sao Thổ, bởi vì không có ranh giới khách quan giữa vô số vật thể vô danh nhỏ tạo thành hệ vành đai của Sao Thổ và các vật thể lớn hơn được đặt tên là vệ tinh. Hơn 150 vệ tinh tự nhiên được nhúng trong các vòng đã được phát hiện bởi sự xáo trộn mà chúng tạo ra trong vật liệu vòng xung quanh, mặc dù điều này được cho là chỉ là một mẫu nhỏ trong tổng dân số của các vật thể đó.
Vẫn còn 211 vệ tinh tự nhiên chưa được đặt tên (tính đến tháng 3 năm 2025). Ngoại trừ vệ tinh chưa đặt tên là S/2009 S 1, tất cả chúng đều là những vệ tinh không đồng đều. Hầu hết các vệ tinh không đều sử dụng tên từ thần thoại Gallic, Norse và Inuit dựa trên các nhóm quỹ đạo của chúng.[5][6]
Nhóm
Các nhà khoa học phân loại các vệ tinh của Sao Thổ ra làm bảy loại. Khác hẳn với trường hợp của Sao Mộc, một vệ tinh của Sao Thổ có thể thuộc nhiều loại. Các loại vệ tinh của Sao Thổ gồm có:
Loại "bảo vệ vòng đai" có quỹ đạo nằm sát ngoài, hay sát trong, hay ở giữa của vòng đai. Các vệ tinh ở sát ngoài hay sát trong của một vòng đai giới hạn phạm vi của vòng đai đó và làm cho ranh giới của nó rõ ràng hơn, trong khi các vệ tinh ở giữa một vòng đai tạo ra những khoảng hở ở trong giữa vòng đai. Các vệ tinh thuộc loại này gồm có: Pan, Atlas, Prometheus, Pandora, Epimetheus, Janus, S/2004 S3 và S/2004 S4 (hai vệ tinh mới được khám phá vào năm 2004 nên chưa có tên).
Pan
Atlas
Prometheus
Pandora
Epimetheus
Janus
Loại vệ tinh "lớn, bên trong" có quỹ đạo nằm giữa 200 ngàn và 450 ngàn km nếu kể từ tâm của Sao Thổ ra. Tuy tên gọi có chữ "lớn", loại này bao gồm vài vệ tinh nhỏ. Các vệ tinh thuộc loại này gồm: Mimas, Enceladus, Tethys, Dione, Rhea, Methone, Pallene...
Mimas
Enceladus
Tethys
Dione
Rhea
Methone
Pallene
Loại "quỹ đạo chung" là một nhóm vệ tinh nằm trên cùng một quỹ đạo nhưng ở cách xa nhau và có cùng một vận tốc nên không bao giờ va chạm. Tethys (xem loại "lớn, bên trong" ở trên) dùng chung một quỹ đạo với hai vệ tinh nhỏ tên là Telesto và Calypso; Dione (xem loại "lớn, bên trong" ở trên) dùng chung một quỹ đạo với hai vệ tinh nhỏ tên là Helene và Polydeuces. Trường hợp của Epimetheus và Janus (xem loại "bảo vệ vòng đai" ở trên) là trường hợp đặc biệt của loại này: cả hai lớn gần bằng nhau, có quỹ đạo riêng, và gần nhau vừa đủ để có thể va chạm, nhưng cứ vào khoảng 4 năm hai vệ tinh này đổi quỹ đạo với nhau để tránh va chạm.
Telesto
Calypso
Helene
Polydeuces
Loại vệ tinh "lớn, bên ngoài" có quỹ đạo nằm giữa 1 triệu và 3,5 triệu km nếu kể từ tâm của Sao Thổ ra. Các vệ tinh thuộc loại này gồm: Titan, Hyperion và Iapetus. Loại này có thể gọi là một nhóm.
Titan
Hyperion
Bay tới Hyperion
Iapetus
Các vệ tinh thuộc những loại trên là vệ tinh lớn với khối lượng đáng kể (ngoại trừ S/2004 S3, S/2004 S4, Methone và Pallene). Các vệ tinh còn lại là các vệ tinh nhỏ, thường thường bán kính chỉ vào khoảng 10 km (ngoại trừ Phoebe), có quỹ đạo ở ngoài 10 triệu km nếu kể từ tâm của Sao Thổ ra, mới được khám phá gần đây và được chia ra làm 3 nhóm:
Trong các vệ tinh lớn, 8 vệ tinh tự quay một vòng chung quanh chính mình trong cùng một thời gian với một vòng chung quanh Sao Thổ nên luôn luôn có một mặt hướng về Sao Thổ và một mặt quay đi – giống như trường hợp của Mặt Trăng đối với Địa Cầu. Trong số các vệ tinh nhỏ, 6 vệ tinh đi ngược với chiều quay của Sao Thổ. Hầu hết các vệ tinh của Sao Thổ có cấu tạo pha trộn giữa băng và đá.
Chu kỳ của quỹ đạo mang dấu trừ (−) nếu vệ tinh đi ngược với chiều quay của Sao Thổ. S có nghĩa là chu kỳ quay của vệ tinh bằng đúng chu kỳ của quỹ đạo.
Bảng thống kê
Key
† Major icy moons
♠ Titan
‡ Inuit group
♦ Gallic group
♣ Norse group
Các vệ tinh tự nhiên của Sao Thổ được liệt kê dưới đây theo bán kính trung bình quỹ đạo quay quanh hành tinh chính, từ gần đến xa. Vệ tinh có khối lượng đủ để có hình dạng cân bằng thủy tĩnh được in đậm, vệ tinh dị hình có nền màu đỏ, da cam và ghi.
^A confirmed moon is given a permanent designation by the IAU consisting of a name and a Roman numeral.[7] The nine moons that were known before 1900 (of which Phoebe is the only irregular) are numbered in order of their distance from Saturn; the rest are numbered in the order by which they received their permanent designations. Nine small moons of the Norse group and S/2009 S 1 have not yet received a permanent designation.
^Kích thước của Pan, Janus, Methone, Ahthe, Pallene và các vệ tinhTroia của Tethys và Dione được lấy từ Porco, 2007, Bàng 1.[8] Diameters and dimensions of Mimas, Enceladus, Tethys, Dione, Rhea and Iapetus are from Thomas eta al., 2007, Table 1.[9] The values for Phoebe are from Giese, 2006.[10] The diameter and dimensions for Hyperion are from Thomas, 1995[11] and Thomas, 2007, Table 1.[12] The approximate sizes of the irregular satellites are from the website of Scott Sheppard.[13]
^Masses of the large moons were taken from Jacobson, 2006. Masses of some small inner moons were taken from Porco, 2007.[8] Masses of other small moons were calculated assuming a density of 1.3 g/cm³.
^ abcThe orbital parameters were taken from Spitale 2006, IAU-MPC Natural Satellites Ephemeris Service,[14] and NASA/NSSDC.[15]
^Negative orbital periods indicate a retrograde orbit around Saturn (opposite to the planet's rotation).
^Thomas, P.C; Black, G. J.; Nicholson, P. D. (1995). "Hyperion: Rotation, Shape, and Geology from Voyager Images". Icarus. Quyển 117 số 1. tr. 128–148. Bibcode:1995Icar..117..128T. doi:10.1006/icar.1995.1147.
^Williams, David R. (ngày 21 tháng 8 năm 2008). "Saturnian Satellite Fact Sheet". NASA (National Space Science Data Center). Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2010.
^Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên IAUC2009b
Danh sách theo khoảng cách bán kính quỹ đạo trung bình tăng dần so với Sao Thổ kể từ kỷ nguyênJD 2.459.200,5. Các tên đặt tạm thời được viết in nghiêng
Vệ tinh của vệ tinh GHI CHÚ: Các vệ tinh được in nghiêng không gần với dạng cân bằng thủy tĩnh; các vệ tinh [trong ngoặc vuông] có hoặc không có khả năng gần với dạng cân bằng thủy tĩnh.