Mất ý thức trong một khoảng thời gian, run rẩy bất thường, nhìn chằm chằm, thay đổi tầm nhìn, thay đổi tâm trạng và/hoặc các loại rối loạn nhận thức khác [1]
Động kinh là một chứng bệnh hệ thần kinh do xáo trộn lặp đi lặp lại của một số nơron trong vỏ não[10][11] tạo nhiều triệu chứng rối loạn hệ thần kinh (các cơn động kinh) như co giật của bắp thịt, cắn lưỡi, sùi bọt mép, mắt trợn ngược, bất tỉnh, mất kiểm soát tiểu tiện, hoặc gây cảm giác lạ. Cơn động kinh bao gồm các triệu chứng có thể thay đổi từ rất ngắn gọn và gần như không thể phát hiện đến các cơn động kinh thời gian dài với chấn động mạnh mẽ.[12] Trong động kinh, co giật có xu hướng tái phát, và không có nguyên nhân tiềm ẩn ngay lập tức[10] trong khi cơn co giật xảy ra do một nguyên nhân cụ thể không được coi là triệu chứng của bệnh động kinh.[13]
Triệu chứng co giật của động kinh toàn thân và cách sơ cứu
Động kinh là kết quả của hoạt động tế bào thần kinh vỏ não quá mức và không bình thường trong não.[13]
Việc chẩn đoán thường liên quan đến việc loại trừ các điều kiện khác mà có thể gây ra các triệu chứng tương tự như ngất xỉu. Ngoài ra, làm cho việc chẩn đoán liên quan đến việc xác định nếu bất kỳ nguyên nhân khác của cơn động kinh là hiện nay như cai rượu hoặc các vấn đề điện ly.[14] Điều này có thể được thực hiện bằng cách chụp ảnh não và xét nghiệm máu.[14] Bệnh động kinh thường có thể được khẳng định bằng một điện não đồ (EEG), nhưng một bài kiểm tra cho kết quả bình thường không loại trừ vẫn có bệnh.[14]
Động kinh có thể kiểm soát được bằng thuốc trong khoảng 70% các trường hợp.[7] Trong những người có cơn co giật không đáp ứng với thuốc, sau đó phẫu thuật, kích thích thần kinh, hoặc thay đổi chế độ ăn uống có thể được áp dụng. Không phải tất cả các trường hợp động kinh là suốt đời, và một số người bệnh đã cải thiện đến mức không còn cần thiết phải uống thuốc.
Khoảng 1% người trên thế giới (65 triệu) có bệnh động kinh,[15] và gần 80% các trường hợp xảy ra ở các nước đang phát triển.[12] Trong năm 2013 nó dẫn đến 116.000 ca tử vong so với 111.000 ca tử vong trong năm 1990.[16] Bệnh động kinh trở nên phổ biến hơn với tuổi già.[17][18]
Trong các nước phát triển, khởi đầu các ca bệnh mới xảy ra thường xuyên nhất ở trẻ sơ sinh và người cao tuổi;[19] trong các nước đang phát triển bệnh xảy ra chủ yếu ở trẻ lớn và người trẻ,[20]
do sự khác biệt trong tỷ lệ mắc bệnh của các nguyên nhân cơ bản. Khoảng 5-10% dân số toàn cầu có một xác suất ngẫu nhiên mắc bệnh ở độ tuổi 80,[21] và xác suất trải qua một cơn động kinh thứ hai từ 40 tới 50%.[22] Ở nhiều khu vực của thế giới những người có bệnh động kinh hoặc có những hạn chế lái xe hoặc không được phép lái xe,[23] nhưng hầu hết họ có thể trở lại lái xe sau một thời gian không có cơn co giật.
Dịch tễ học
Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tỷ lệ người mắc bệnh động kinh trên thế giới khoảng 0,5% dân số, thay đổi tùy theo địa lý, như ở Pháp và ở Mỹ là khoảng 0,85%; Canada là 0,6%. Tại Việt Nam khoảng 2% dân số bị bệnh động kinh trong đó gần 60% số bệnh nhân là trẻ em.[24]
Phân loại
Bệnh động kinh có nhiều loại, với những triệu chứng khác nhau.
Năm 1997, các bác sĩ chuyên khoa thần kinh đưa ra phương pháp phân loại mới, nhưng chưa hoàn chỉnh và hiện nay, cácn phân loại của năm 1981 vẫn còn thịnh hành.
Chẩn đoán
Nhân chứng: Khi cơn động kinh xảy ra, người bệnh thường bị mất ý thức và không thể mô tả được triệu chứng. Một người khác quan sát cơn động kinh sẽ giúp y sĩ chẩn đoán dạng thể của cơn động kinh.
Bảo vệ an toàn: tránh không để bệnh nhân bị chấn thương, đem những vật sắc bén ra xa, coi chừng người hay xe cộ qua lại.
Đặt vào thế nằm an toàn, lăn sang thế nằm nghiêng, để cho dung dịch trong miệng khỏi ứ tràn vào sau cổ họng.
Tuyệt đối không cho bất cứ đồ vật gì vào miệng người đang lên cơn động kinh[27]. Nhiều người cho vật cứng hay giẻ vào miệng bệnh nhân hy vọng tránh lưỡi bị cắn nhưng thực tế làm vậy có thể làm mẻ răng hay làm bệnh nhân bị ngạt thở. Lưỡi bị cắn chảy máu không bao nhiêu, không hại tính mạng và dễ lành. Có đồ vật cứng trong miệng làm tăng khả năng cắn lưỡi. Ngoài ra răng mẻ sau này khó chữa và miếng răng mẻ có thể lọt vào sau gây chấn thương trong họng hay khí quản. Giẻ trong mồm có thể làm ngạt thở.
Theo dõi bên cạnh bệnh nhân cho đến khi hết cơn giật. Sau đó bệnh nhân sẽ nằm bất động một thời gian. Tiếp theo là thời gian khá dài, bệnh cảm thấy bần thần, ngây ngơ, thiếu khả năng tiếp thu những gì chung quanh và dễ gây tai nạn. Không nên để bệnh nhân đi ra đường cho đến khi ý thức thực sự trở lại bình thường.[28]
Thuốc chống động kinh
Điều trị cho hầu hết các bệnh động kinh liên quan đến việc bệnh nhân dùng thuốc chống co giật và có thể phải dùng chúng trong suốt quãng đời còn lại.[29] loại động kinh Động kinh, các loại thuốc khác mà bệnh nhân đang dùng, các vấn đề sức khỏe khác, tuổi tác và lối sống của bệnh nhân. Điều trị ban đầu được khuyến nghị với một loại thuốc.[30] Nếu không thành công, nên chuyển sang một loại thuốc trị liệu khác. Thuốc chống co giật dựa trên Cannabinoid đôi khi có thể được khuyến nghị, đặc biệt đối với những bệnh nhân mắc hội chứng Lennox-Gastaut và hội chứng Dravet,[31] tuy nhiên việc cấp phép cho những loại thuốc này bị giới hạn nghiêm ngặt ở một số quốc gia.[32] Nên sử dụng đồng thời hai loại thuốc trong trường hợp đơn trị liệu thất bại. Việc chuyển sang loại thuốc thứ hai có thể giúp cắt cơn co giật ở khoảng 13% bệnh nhân, trong khi chuyển sang loại thuốc thứ ba hoặc dùng hai loại thuốc cùng lúc có thể tăng khả năng kiểm soát cơn lên 4% [93]. Khoảng 30% bệnh nhân không đáp ứng với thuốc chống co giật.[33]
Có rất nhiều loại thuốc chống co giật trên thị trường. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng các loại thuốc như phenytoin, carbamazepine và valproate đều có hiệu quả như nhau trong việc ức chế cả động kinh cục bộ và toàn thể.[34]
^Goldberg EM, Coulter DA (tháng 5 năm 2013). "Mechanisms of epileptogenesis: a convergence on neural circuit dysfunction". Nature Reviews. Neuroscience. Quyển 14 số 5. tr. 337–349. doi:10.1038/nrn3482. PMC3982383. PMID23595016.
^Martin-McGill KJ, Jackson CF, Bresnahan R, Levy RG, Cooper PN (tháng 11 năm 2018). "Ketogenic diets for drug-resistant epilepsy". The Cochrane Database of Systematic Reviews. Quyển 11 số 11. tr. CD001903. doi:10.1002/14651858.CD001903.pub4. PMC6517043. PMID30403286.
^ abEadie, MJ (tháng 12 năm 2012). "Shortcomings in the current treatment of epilepsy". Expert Review of Neurotherapeutics. Quyển 12 số 12. tr. 1419–27. doi:10.1586/ern.12.129. PMID23237349.
^Vos T, Allen C, Arora M, Barber RM, Bhutta ZA, Brown A, và đồng nghiệp (tháng 10 năm 2016). "Global, regional, and national incidence, prevalence, and years lived with disability for 310 diseases and injuries, 1990-2015: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2015". Lancet. Quyển 388 số 10053. tr. 1545–1602. doi:10.1016/S0140-6736(16)31678-6. PMC5055577. PMID27733282.
^Wang H, Naghavi M, Allen C, Barber RM, Bhutta ZA, Carter A, và đồng nghiệp (tháng 10 năm 2016). "Global, regional, and national life expectancy, all-cause mortality, and cause-specific mortality for 249 causes of death, 1980-2015: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2015". Lancet. Quyển 388 số 10053. tr. 1459–1544. doi:10.1016/s0140-6736(16)31012-1. PMC5388903. PMID27733281.
^ abcdLongo, Dan L (2012). "369 Seizures and Epilepsy". Harrison's principles of internal medicine (ấn bản thứ 18). McGraw-Hill. tr. 3258. ISBN978-0-07-174887-2.
^Thurman, DJ; Beghi, E; Begley, CE; Berg, AT; Buchhalter, JR; Ding, D; Hesdorffer, DC; Hauser, WA; Kazis, L; Kobau, R; Kroner, B; Labiner, D; Liow, K; Logroscino, G; Medina, MT; Newton, CR; Parko, K; Paschal, A; Preux, PM; Sander, JW; Selassie, A; Theodore, W; Tomson, T; Wiebe, S; ILAE Commission on, Epidemiology (tháng 9 năm 2011). "Standards for epidemiologic studies and surveillance of epilepsy". Epilepsia. Quyển 52 Suppl 7. tr. 2–26. doi:10.1111/j.1528-1167.2011.03121.x. PMID21899536.{{Chú thích tạp chí}}: Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^GBD 2013 Mortality and Causes of Death, Collaborators (ngày 17 tháng 12 năm 2014). "Global, regional, and national age-sex specific all-cause and cause-specific mortality for 240 causes of death, 1990-2013: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2013". Lancet. Quyển 385 số 9963. tr. 117–71. doi:10.1016/S0140-6736(14)61682-2. PMC4340604. PMID25530442. {{Chú thích tạp chí}}: |first1= có tên chung (trợ giúp)Quản lý CS1: tên số: danh sách tác giả (liên kết)
^Wilden, JA; Cohen-Gadol, AA (ngày 15 tháng 8 năm 2012). "Evaluation of first nonfebrile seizures". American family physician. Quyển 86 số 4. tr. 334–40. PMID22963022.
^L Devlin, A; Odell, M; L Charlton, J; Koppel, S (tháng 12 năm 2012). "Epilepsy and driving: current status of research". Epilepsy research. Quyển 102 số 3. tr. 135–52. doi:10.1016/j.eplepsyres.2012.08.003. PMID22981339.
^Barber, Lynn (ngày 17 tháng 12 năm 2000). "Forever young". Observer. {{Chú thích báo}}: Đã bỏ qua tham số không rõ |accessdaymonth= (trợ giúp); Đã bỏ qua tham số không rõ |accessyear= (gợi ý |access-date=) (trợ giúp)
World health organization, Department of mental health and substance abuse, Programme for neurological diseases and neuroscience; Global campaign against epilepsy; International league against epilepsy (2005). Atlas, epilepsy care in the world, 2005(pdf). Geneva: Programme for Neurological Diseases and Neuroscience, Department of Mental Health and Substance Abuse, World Health Organization. ISBN92-4-156303-6.{{Chú thích sách}}: Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện về Động kinh.