Binh chủng Pháo binh Việt Nam Cộng hòa
![]() Binh chủng Pháo Binh[1] (tiếng Anh: Artillery Republic of Vietnam Armed Forces, ARVNAF) là lực lượng hỏa lực trọng yếu của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tồn tại từ 1955 đến 1975.
Lịch sử hình thànhGiai đoạn Quốc gia Việt NamPháo binh Quốc gia Việt Nam được thành hình vào đầu thập niên 1950. Thoạt đầu Pháp thành lập các Pháo đội Tác xạ biệt lập sử dụng người Việt, sau đó kết hợp thành các Tiểu đoàn Pháo binh: Mỗi Tiểu đoàn Pháo binh có quân số 410 người, trang bị 12 khẩu đại bác 105 ly, gồm có một Bộ tham mưu, một Pháo đội chỉ huy và công vụ, ba Pháo đội tác xạ. Năm 1953, Pháo binh vị trí được thành lập do quyết định của Hội đồng cao cấp Việt Pháp ngày 24 tháng 2 năm 1953. Bắt đầu từ tháng 5 năm 1953, 42 khẩu đội Pháo binh vị trí của Pháp tại các phân khu Transbassac và Mỹ Tho được chuyển giao. Lần lượt ngành Pháo binh vị trí trên toàn quốc phát triển để ứng phó với tình thế. Ngoài các khẩu đội trên, sự thành lập và chuyển giao các Pháo binh vị trí đã được diễn ra như sau:
Mỗi tổ chức Pháo binh vị trí miền thường gồm có một ban chỉ huy 17 người (1 cấp tá, 2 cấp úy, 5 hạ sĩ quan và 9 binh sĩ). Một ban chỉ huy của Pháo đội chỉ huy 19 người (1 cấp úy, 4 hạ sĩ quan và 14 binh sĩ), nhiều Trung đội bán lưu động với mỗi trung đội 36 người (1 sĩ quan, 5 hạ sĩ quan và 30 binh sĩ). Nhiều trung đội cố định với mỗi Trung đội 17 người (4 hạ sĩ quan, 13 binh sĩ). Mỗi khẩu đội cố định 7 người. Để thuận tiện cho việc nhận danh, kể từ 1/7/1954, các Pháo binh vị trí cải hiệu là: Các pháo đội chỉ huy và các trung đội cố định hay bán lưu động thuộc trong thành phần của một Pháo binh vị trí đều mang chung một danh hiệu với một vài khác biệt ở cách sắp xếp, thí dụ: Pháo binh vị trí đã sử dụng những loại đại bác lỗi thời và hết sức phức tạp. Có cả thẩy 173 khẩu mà có tới những năm loại như sau: Kể từ tháng 9/1953, tất cả các Tiểu đoàn Pháo binh hiện hữu được hệ thống hóa vào các Liên đoàn bộ binh (tổ chức mỗi Liên đoàn gồm có: một Bộ chỉ Huy, Đại đội chỉ huy công vụ, ba Tiểu đoàn bộ binh, một Tiểu đoàn pháo binh 105 ly, một pháo đội 155 ly, một phân đội truyền tin, một đơn vị công binh, ….), và vì sự xuất hiện của các Liên đoàn bộ binh mà những Tiểu đoàn được thành lập sau đó đã mang những danh hiệu theo một thứ tự khác với những Tiểu đoàn tiền lập: Nhưng thực ra chỉ riêng có các Liên đoàn bộ binh số 11, 21, 31, 32, và 41 được thành lập, còn các Liên đoàn bộ binh số 12, 22, 33 và 34 bị cắt bỏ. Đứng trước sự kiện này, trong số 4 Tiểu đoàn tân lập chỉ có 3 Tiểu đoàn được duy trì, còn Tiểu đoàn số 33 phải giải tán ngày 1/3/1955 Khi giải tán Tiểu đoàn trên, quân đội lại phải chấp nhận thu nạp Tiểu đoàn 3 Pháo binh R.A.C.M. hoàn toàn gốc Nùng, do Quân đội Pháp chuyển giao ngày 1/4/1955, và Tiểu đoàn này được cải thành Tiểu đoàn 6 Pháo binh Việt Nam. Liên đoàn Nhảy dù cũng thành lập Đại đội súng cối 4"2, năm 1960 đổi thành Pháo đội súng cối Nhảy dù. Cũng cần kể là khi ngừng chiến, ngành Pháo binh vị trí lần lượt bị giải tán và đến tháng 3/1955 thì sự giải tán này hoàn tất. Vừa lúc này quân đội lại tiếp nhận Trung tâm Huấn luyện Pháo binh Phú Lợi chuyển giao (16/3/1955). Pháo binh Việt Nam lúc ấy gồm có 9 Tiểu đoàn và một Trung tâm huấn luyện được phân bổ tại các vị trí như sau: Đầu năm 1954, Pháo binh Việt Nam có quân số 4248 gồm 163 sĩ quan, 732 hạ sĩ quan và 3453 binh sĩ. Bắt đầu từ tháng 10/1954, các chức vụ Tiểu đoàn trưởng mới được giao cho sĩ quan Pháo binh Việt Nam. Kể từ 1/1/1954, trước một quân số Pháo binh càng ngày càng lớn lao cần được quản trị và huấn luyện một cách chu đáo, phái bộ thanh tra Pháp đã phải đặt riêng ra 2 phòng thuộc lĩnh vực thanh tra của họ để chuyên trách về Pháo binh Việt Nam. Hai phòng đó là: Trước đà tiến triển của các đơn vị Pháo binh và cũng để cho các Tư lệnh Quân khu Việt Nam có thể sử dụng được các đơn vị này một cách dễ dàng, ngày 3/5/1954, các bộ chỉ huy Pháo binh Quân khu thành lập, nhưng vẫn do sĩ quan Pháp điều khiển vừa với tư cách cố vấn vừa là chỉ huy trưởng Pháo binh cho Quân khu liên hệ. Việc tổ chức này được áp dụng cho cả các binh chủng Thiết giáp, Công binh, và Xa binh. Nhưng chi tới cuối tháng 1/1955, tất cả các Bộ Chỉ Huy binh chủng của Quân khu này đều bị giải tán. Tiếp sau đó một cơ quan thanh tra các binh chủng tại Bộ Tổng Tham mưu được thành lập vào tháng 3/1955, trong đó có binh chủng Pháo binh. Chính cơ quan thanh tra này đã khai sinh ra bộ chỉ huy Pháo Binh cũng như Thiết giáp, Công binh và Xa binh, kể từ 1/12/1955. Chỉ huy trưởng Pháo Binh Việt Nam đầu tiên là Trung tá Bùi Hữu Nhơn đảm nhiệm chức vụ vào tháng 8/1955. Do kế hoạch quân số 150.000 người, ngành Pháo binh đang từ 9 Tiểu đoàn gia tăng thành 11 Tiểu đoàn, trong đó có một Tiểu đoàn Pháo binh 155 ly đầu tiên được thành lập. Tiểu đoàn số 34 được cải biến thành 155 ly và di chuyển khỏi miền Nam để đồn trú tại Đà Nẵng. Giai đoạn Đệ nhất Cộng hòaTháng 8 năm 1955, Quân đội Việt Nam Cộng hòa có 4 Sư đoàn Dã chiến với phiên hiệu: 1, 2, 3 và 4 (Quân số cho một Sư đoàn là 8.600 người), 6 Sư đoàn Khinh chiến quân số 5.245 với phiên hiệu: 11, 12, 14, 15, 22 và 23 (Quân số cho một Sư đoàn là 5245 người). Mỗi Sư đoàn Dã chiến có một Bộ chỉ huy Pháo binh và một Tiểu đoàn trang bị đại bác 105 ly. Đầu tháng 1 năm 1956 Pháo binh tăng thêm 2 Tiểu đoàn, Tiểu đoàn số 23, 25 thành lập liên tiếp và 3 Tiểu đoàn 155 ly với danh hiệu Tiểu đoàn 35, 36, và 37 Pháo binh. Trong lúc đó để hòa nhịp với sự cải tổ của quân đội: Đồng thời, Đại đội Trọng pháo của Liên đoàn Thủy Quân Lục Chiến được thành lập. Cuối năm 1958, 10 Sư đoàn kể trên cải tổ thành 7 Sư đoàn Bộ binh mang phiên hiệu: 1, 2, 5, 7, 21, 22 và 23 (Quân số cho một Sư đoàn là 10.500 người), thành phần Pháo binh cũng gia tăng, mỗi Sư đoàn có một Bộ chỉ huy, một Tiểu đoàn pháo binh 105 ly, và một Tiểu đoàn súng cối với 27 khẩu 42 ly. Giai đoạn Đệ nhị Cộng hòa![]() Năm 1961, Đại đội trọng pháo Thủy quân Lục chiến được biến đổi thành thành Pháo đội đại bác trang bị 8 khẩu 75 ly sơn Pháo. Cùng năm Tiểu đoàn Pháo binh Thủy quân Lục chiến thành lập với Pháo đội A, B trang bị mỗi Pháo đội 8 khẩu sơn Pháo, và Pháo đội C với 8 khẩu 105 ly. Năm 1962 tân lập 2 Bộ chỉ huy PB Sư đoàn cho SĐ 9 và SĐ 25 Bộ binh, tân lập Tiểu đoàn 9 Pháo binh, Tiểu đoàn 9 súng cối cho Sư đoàn 9 Bộ binh. Tân lập Tiểu đoàn 25 Pháo binh và Tiểu đoàn 25 súng cối cho Sư đoàn 25 Bộ binh. Bộ chỉ huy PB Sư đoàn 9 và 2 Tiểu đoàn di chuyển vào Sa Đéc thuộc Quân khu 4. Bộ chỉ huy PB Sư đoàn 25 di chuyển về Hậu Nghĩa thuộc Quân khu 3. Năm 1964 các Tiểu đoàn súng cối được biến cải và được trang bị đại bác 105 ly. Như vậy mỗi Tiểu đoàn Pháo binh được trang bị với 18 đại bác 105 ly. Danh hiệu cũng thay đổi, thí dụ PB Sư đoàn 1 có Bộ chỉ huy PB Sư đoàn, Tiểu đoàn 11 và Tiểu đoàn 12 Pháo binh. Tháng 8 năm 1965 thành lập thêm Sư đoàn 10 (Sư đoàn 18 bộ binh). Pháo binh thành lập thêm một PB Sư đoàn và 2 Tiểu đoàn PB 105 ly. Tháng 12 năm 1965 thành lập Tiểu đoàn Pháo Binh Nhảy Dù. Giữa năm 1968 Pháo binh Thủy quân Lục chiến thay các đại bác sơn pháo 75 thành đại bác 105 ly. Tháng 8 năm 1968 thành lập Bộ chỉ huy PB Sư đoàn Dù, tân lập Tiểu đoàn 2 Pháo binh Nhảy Dù, đồng thời đổi tên Tiểu đoàn Pháo binh Nhảy Dù thành Tiểu đoàn 1 Pháo binh ND. Tháng 10 năm 1968 Tiểu đoàn 3 Pháo binh Nhảy Dù thành lập. Sau Tết Mậu thân, Pháo Binh Sư đoàn được tăng thêm đơn vị và số lượng pháo như sau: Bộ chỉ huy PB Sư đoàn, một Tiểu đoàn 155 ly, ba Tiểu đoàn 105 ly, mỗi Tiểu đoàn đều trang bị 18 đại bác. Danh hiệu như sau, Thí dụ PB Sư đoàn 18: Tiểu đoàn 180 Pháo binh (155 ly), Tiểu đoàn 181 Pháo binh (105 ly), Tiểu đoàn 182 Pháo binh (105 ly), và Tiểu đoàn 183 Pháo binh (105 ly). Theo đó, các Tiểu đoàn PB được đổi tên khi sáp nhập vào các Sư đoàn Bộ binh: Đầu năm 1969 Tiểu đoàn 2 PB Thủy quân Lục chiến thành lập. Năm 1971 Pháo binh thành lập 5 Tiểu đoàn Pháo binh 175 cơ động, 3 cho Quân đoàn I, 1 cho Quân đoàn II và 1 cho Quân đoàn III. Pháo binh Phòng không có 4 Tiểu đoàn. Cuối năm 1971, Pháo binh Tiểu khu được thành lập, phần lớn cố định tại các vị trí cạnh quận lỵ để yểm trợ lãnh thổ hay di chuyển yểm trợ các cuộc hành quân ngắn hạn của các Tiểu khu. Mỗi Tiểu Khu có một Ban Pháo binh, phối hợp hỏa lực yểm trợ cho Tiểu khu. Số lượng đại bác tùy thuộc nhiệm vụ và lãnh thổ của Tiểu Khu. Tổng số tất cả pháo binh Tiểu khu là 176 Trung đội. Đồng thời cuối 1971 Sư đoàn 3 Bộ binh được thành lập, Pháo binh lại thành lập Bộ chỉ huy PB Sư đoàn: Vì nhu cầu hành quân, Pháo binh Sư đoàn 3 vừa tổ chức, vừa huấn luyện, và vừa yểm trợ hành quân. Riêng Tiểu đoàn 33 chưa thụ huấn xong Giai Đoạn 3 Huấn luyện đơn vị đã phải sử dụng hành quân. Tính đến tháng 4/1975 Pháo binh Quân Lực Việt Nam Cộng hòa có: Hậu cứ của PB Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến tại Sài Gòn. Mỗi Pháo Binh Sư đoàn có một Tiểu đoàn PB 155 ly, 3 tiểu đoàn PB 105 ly. Các PB Sư đoàn Nhảy dù và Thủy Quân Lục Chiến không có 155 ly. 176 Trung đội Pháo binh Lãnh thổ (352 khẩu đại bác, tương đương với 20 Tiểu đoàn Pháo binh). Thuộc dụng các Quân đoàn gồm có: Bộ chỉ huy Pháo binh Trung ương và trường Pháo binh/1975
Chỉ huy các đơn vị Pháo binh thuộc Quân đoàn I/1975
Chỉ huy các đơn vị Pháo binh thuộc Quân đoàn II/1975
Chỉ huy các đơn vị Pháo binh thuộc Quân đoàn III/1975
Chỉ huy các đơn vị Pháo binh thuộc Quân đoàn IV/1975
Chỉ huy Pháo binh các đơn vị Tổng trừ bị/1975
Chỉ huy trưởng Pháo binh qua các thời kỳ
Chủ thích
Tham khảo
Xem thêmLiên kết |
Portal di Ensiklopedia Dunia