Quân đoàn II là một đơn vị cấp Quân đoàn, được tổ chức hỗn hợp gồm cả Hải quân - Lục quân - Không quân. Đây là quân đoàn thành lập thứ nhì và là một trong bốn quân đoàn chủ lực của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Trong thời gian tồn tại của mình, Quân đoàn II có nhiệm vụ kiểm soát một vùng lãnh thổ có diện tích rộng lớn và địa hình phức tạp nhất so với 3 quân đoàn còn lại, gồm 7 tỉnh thuộc khu vực Cao nguyên Trung phần: Kontum, Pleiku, Phú Bổn, Darlac, Quảng Đức, Tuyên Đức và Lâm Đồng; 5 tỉnh thuộc vùng duyên hải nam Trung phần: Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận và Đặc khu Cam Ranh. Đặc biệt, vùng cao nguyên là đầu cầu của tuyến đường Trường Sơn, tuyến tiếp vận chiến lược của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho những người Cộng sản miền Nam, vì vậy hầu hết trận đánh lớn giữa lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam với quân đội Mỹ và đồng minh diễn ra trên địa bàn của quân đoàn II. Ngày 10 tháng 3 năm 1975, Quân đội nhân dân và Quân Giải phóng nổ súng tấn công thị xã Ban Mê Thuột, mở đầu Chiến dịch Tây Nguyên. Trước sức ép của đối phương, cùng với cuộc tháo chạy thảm họa trên đường số 7, chỉ trong 10 ngày, 75% lực lượng của Quân đoàn II hoàn toàn tan vỡ,[1] không còn thực sự hiện hữu như là một lực lượng chiến đấu tương xứng với quy mô của nó nữa.[2]
Lịch sử hình thành
Tiền thân của Vùng II chiến thuật là Đệ tứ Quân khu, được thành lập ngày 1 tháng 7 năm 1952[3], là một trong 4 Quân khu của Quân đội Quốc gia Việt Nam. Vùng kiểm soát của Đệ tứ Quân khu ban đầu chỉ tương ứng với phần cao nguyên Trung phần Việt Nam (nay là Tây nguyên). Năm 1954, địa bàn các Quân khu được điều chỉnh lại, trong đó Đệ tứ Quân khu được mở rộng thêm phần lãnh thổ Trung Việt kể từ ranh giới phía bắc tỉnh Quảng Ngãi trở xuống.[4]
Sau khi chính thể Việt Nam Cộng hòa chính thức thành lập ngày 26 tháng 10 năm 1956, toàn bộ lãnh thổ Nam Việt Nam do Việt Nam Cộng hòa kiểm soát được chia thành 6 Quân khu[5]. Địa bàn của Đệ tứ Quân khu cũ được tách thành 2 Quân khu mới là Đệ tam Quân khu (gồm các tỉnh Kontum, Pleiku, Bình Định, Phú Yên) và Đệ tứ Quân khu mới (gồm các tỉnh nam cao nguyên Trung phần và phía nam duyên hải Trung phần). Tư lệnh đầu tiên của Đệ tam Quân khu là Đại tá Đỗ Cao Trí và Tư lệnh đầu tiên của Đệ tứ Quân khu là Đại tá Trần Ngọc Tám.
Quân đoàn II được thành lập vào ngày 1 tháng 10 năm 1957 tại Thị xã Ban Mê Thuột, với nòng cốt ban đầu gồm Sư đoàn 14 và Sư đoàn 15 Khinh chiến, do Thiếu tướng Trần Ngọc Tám làm Tư lệnh đầu tiên. Địa bàn kiểm soát của Quân đoàn II bao gồm cả địa bàn của cả Đệ tam và Đệ tứ Quân khu.
Cuối năm 1961, các Quân khu được cải tổ thành các Vùng chiến thuật (trừ Quân khu Thủ đô đổi thành Biệt khu Thủ đô)[6]. Đệ tam và Đệ tứ Quân khu được sáp nhập và cải tổ thành Vùng 2 chiến thuật, từ đó có danh hiệu liên hợp Quân đoàn II và Vùng 2 chiến thuật. Địa bàn của Vùng 2 được tổ chức thành các khu chiến thuật: Khu 22 chiến thuật (gồm các tỉnh Kontum, Pleiku, Phú Bổn, Bình Định và Phú Yên) và Khu 23 chiến thuật (gồm các tỉnh Darlac, Tuyên Đức, Quảng Đức, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Bình Thuận và Ninh Thuận và Đặc khu Cam Ranh). Các tỉnh cũng được tổ chức về mặt quân sự thành các Tiểu khu chiến thuật, đứng đầu là một sĩ quan cấp Đại tá hoặc Trung tá với chức danh Tỉnh trưởng (hoặc Thị trưởng) kiêm Tiểu khu trưởng, trực tiếp chỉ huy và điều động các đơn vị Địa phương quân và các Chi khu (trong đó có các Trung đội Nghĩa quân). Quân số của mỗi Tiểu khu tương đương với quân số từ một đến hai Trung đoàn bộ binh nhưng về mặt trang bị không bằng các đơn vị chủ lực. Vì vậy khi cần thiết sẽ được sự hỗ trợ của các Sư đoàn bộ binh. Do đó, khi phối hợp tác chiến Tiểu khu trưởng dưới quyền của Tư lệnh Sư đoàn. Tháng 10 năm 1962, Bộ Tư lệnh Quân đoàn di chuyển lên Pleiku (Đặt sở Chỉ huy tại đây cho đến 1975). Sau, 2 tỉnh Kontum và Pleiku được đặt thuộc Biệt khu 24. Ngày 1 tháng 7 năm 1970, Vùng 2 chiến thuật được cải danh thành Quân khu 2.
Sau khi Hiệp định Paris 1973 được ký kết, lực lượng quân Mỹ và đồng minh lần lượt rút khỏi Việt Nam. Viện trợ bị cắt giảm.
Trụ sở Bộ Tư lệnh Quân đoàn II đặt tại Pleiku (Tháng 3/1975 chuyển về Nha Trang). Sau năm 1975 nơi này được trưng dụng thành trụ sở Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh Gia Lai.
Biên chế tổ chức
Dưới đây là biên chế tổ chức của Quân đoàn II vào đầu năm 1975.
Bộ Tư lệnh:
Bộ Tham mưu Sở An ninh Quân đội Phòng Tổng Quản trị
Phòng 2 Tình báo Phòng 3 Tác chiến Bộ chỉ huy Tiếp vận
Đơn vị tác chiến trực thuộc:
Sư đoàn 22 bộ binh: Trách nhiệm địa bàn các tỉnh Kontum, Pleiku, Phú Bổn, Bình Định và Phú Yên Sư đoàn 23 Bộ binh: Trách nhiệm địa bàn các tỉnh Darlac, Quảng Đức, Tuyên Đức, Lâm Đồng, Khánh Hòa, Bình Thuận, Ninh Thuận và Đặc khu Cam Ranh. Địa phương quân và Nghĩa quân: Trách nhiệm trên địa bàn của từng Tiểu khu.[7]
Tiểu khu Kontum: Các Chi khu (Quận) Chương Nghĩa, Daksut, Dakto và Yếu khu Thị xã Kontum Tiểu khu Pleiku: Các Chi khu Lệ Trung, Phú Nhơn, Thanh An, Thuận Đức và Yếu khu Thị xã Pleiku Tiểu khu Phú Bổn: Các Chi khu Phú Thiện, Phú Túc, Thuần Mẫn và Yếu khu Thị xã Hậu Bổn Tiểu khu Darlac: Các Chi khu Ban Mê Thuột, Buôn Hồ, Lạc Thiện, Phước An và Yếu khu Thị xã Ban Mê Thuột Tiểu khu Quảng Đức: Các Chi khu Đức Lập, Đức Xuyên, Khiêm Đức, Kiến Đức và Yếu khu Thị xã Gia Nghĩa Tiểu khu Tuyên Đức: Các Chi khu Đơn Dương, Đức Trọng, Lạc Dương và Yếu khu Thị xã Đà Lạt (1 quận) Tiểu khu Lâm Đồng: Các Chi khu Bảo Lộc, Di Linh và Yếu khu Thị xã Bảo Lộc Tiểu khu Bình Định: Các Chi khu An Khê, An Lão, An Nhơn, Bình Khê, Hoài Ân, Hoài Nhơn, Phù Cát, Phù Mỹ, Tuy Phước, Vân Canh, Vĩnh Thạnh và Yếu khu Thị xã Quy Nhơn (Gồm 2 quận: Nhơn Bình và Nhơn Định) Tiểu khu Phú Yên: Các Chi khu Đồng Xuân, Hiếu Xương, Phú Đức, Sông Cầu, Sơn Hoà, Tuy An, Tuy Hoà và Yếu khu Thị xã Tuy Hòa Tiểu khu Khánh Hòa: Các Chi khu Cam Lâm, Diên Khánh, Khánh Dương, Ninh Hòa, Vạn Ninh, Vĩnh Xương và Yếu khu Thị xã Nha Trang (2 quận: 1 và 2) Tiểu khu Ninh Thuận: Các Chi khu An Phước, Bửu Sơn, Du Long, Sông Pha, Thanh Hải và Yếu khu Thị xã Phan Rang Tiểu khu Bình Thuận: Các Chi khu Hải Long, Hải Ninh, Hàm Thuận, Hòa Đa, Phan Lý Chàm, Thiện Giáo, Tuy Phong và Yếu khu Thị xã Phan Thiết Đặc khu Cam Ranh: Yếu khu Thị xã Cam Ranh (Gồm 2 quận: Bắc và Nam)
Bộ Tham mưu và Phòng Sở của Quân đoàn II đầu tháng 3/1975
Trung tâm Hành chính Tỉnh, Thị và Bộ chỉ huy Tiểu khu đặt tại Thị xã Đà Lạt. Năm 1967, Trung tâm Hành chính và Bộ chỉ huy Tiểu khu Tuyên Đức dời về xã Tùng Nghĩa, quận Đức Trọng.
^Cao Văn Viên, Những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa. Dẫn theo: Phạm Ngọc Thạch - Hồ Khang và tập thể tác giả. Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975. Tập VIII. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Hà Nội. 2008. trang 273.
^Sắc lệnh số 61-QP của Quốc trưởng Bảo Đại ngày 26 tháng 6 năm 1952
^Sắc lệnh số 19-QP của Quốc trưởng Bảo Đại ngày 19 tháng 3 năm 1954
^Gồm Đệ nhất Quân khu (miền đông Nam phần), Đệ nhị Quân khu (Trung phần), Đệ tam Quân khu (Kontum, Pleiku, Bình Định, Phú Yên), Đệ tứ Quân khu (nam cao nguyên Trung phần và phía nam Duyên hải Trung phần), Đệ Ngũ Quân khu (miền tây Nam phần) và Quân khu Thủ đô (Sài Gòn, Gia Định, Long An).
^Các đơn vị Địa phương quân và Nghĩa quân: Mỗi tiểu khu (tỉnh) có từ 3 đến 5 Tiểu đoàn Địa phương quân, mỗi Chi khu (quận) có từ 10 đến 15 Trung đội Nghĩa quân.
^Các đơn vị Pháo binh biệt phái cho các Sư đoàn, xem ở trang Sư đoàn Bộ binh QLVNCH.
^Đại tá Nguyễn Ngọc Sáu, sinh năm 1928 tại Sài Gòn
^Bộ chỉ huy đặt cạnh Bộ tư lệnh Quân đoàn II (Pleiku)
^Đơn vị Pháo binh Tiểu khu có cấp số tương đương 1 Tiểu đoàn, trang bị đại bác 105 ly, còn gọi là "Pháo binh Diện địa". Còn thiếu danh tính Chỉ huy trưởng Pháo binh các Tiểu khu: Phú Bổn, Tuyên Đức và Lâm Đồng